Dòng thông tin RSS

Thứ Dân – Chương 13

THA DỮ ĐĂNG

Dịch: Tịch Dương Mùa Hạ

thu-dan-13

“Lâm Xuyên, ta hỏi cô, Cố Hữu Hối có quan hệ gì với cô?”

CHƯƠNG 13: PHỒN HOA NĂM ẤY

Tân Nô đáp vâng, sau đó xoay người quay về báo với Lục Dĩ Phương.

Lục Dĩ Phương đang đứng bên ngoài Đồng Tây Đường. Tuyết rơi đầy trong viện, Trần Cẩm Liên lại chỉ mặc một chiếc áo mỏng, vừa quỳ vừa run lẩy bẩy. Đôi tay cô ta giơ cao, trên tay là chiếc áo lông hồ ly của Tống Giản. Ánh đèn vàng hắt lên từng đường cong trên cơ thể cô ta, tựa như lớp da vàng cô độc của loài rắn.

Đôi vai Lục Dĩ Phương vươn thẳng, vẫn không lên tiếng. Nhìn thấy Tân Nô bước đến, nàng ta mới quay đầu lại.

“Về rồi à? Gia nói thế nào?”

Tân Nô nói: “Gia giao cô ta cho nô tì dạy dỗ. Không nói gì khác cả. Chỉ nói sau này gọi cô ta là Lâm Xuyên.”

Lục Dĩ Phương gật đầu, ừ nhẹ.

Tân Nô vẫn không mấy an tâm. “Phu nhân, sau này… nô tì nên làm gì đây?’

Giọng Lục Dĩ Phương bình thản. “Cô cứ cố gắng làm tốt phận sự của mình là được. Về thôi.”

Nói rồi lại xoay người bước đi. Tân Nô đuổi theo kịp, vừa quay đầu nhìn lại vừa nói: “Phu nhân, còn Trần thị…”

Lục Dĩ Phương vẫn không quay lại, chỉ ngẩng đầu hít một hơi. Xung quanh vẫn còn vương lại mùi hương hỗn hợp của pháo hoa và hoa mai. Nàng ta xoa xoa eo, nhe giọng nói: “Mặc kệ cô ta. Gia nhìn thấy cô ta mới bớt giận được.”

Tân Nô thuận theo ánh mắt nàng ta ngẩng đầu, chỉ thấy một bức màn đen thăm thẳm.

Tuyết lại sắp rơi rồi.

Với triều đình mà nói, mùa tuyết rơi năm Gia Định thứ hai không hề tươi sáng. Phía sau cấm thành hùng vĩ đồ sộ, có thứ gì đó vô cùng rực rỡ đã đột ngột sụp đổ. Những người bên trong đều nghe thấy tiếng rơi vỡ vụn của nó.

Bên bờ Bạch Thủy, quân Tấn Vương rút lui như đã hứa. Tường thành Tử Kinh Quan bị phá nát cũng đang miệt mài tái dựng. Đường giới tuyết cắt ngang phủ Thanh Châu và Đại Tề được vẽ lại hoàn chỉnh. Mọi người đều thở phào. Dân cày, đầy tớ đều khoan khoái thẳng người. Dẫu sau thái bình mới có thể sinh nhai. Khắp nơi trong thiên hạ này, những con người tầm thường mới là số đông. Chỉ cần ai nấy đều ngậm miệng không kêu đau thì sẽ không biết thứ đang dần vụn vỡ phía sau cung cấm rốt cuộc là thứ gì.

Vào tháng Giêng, phủ Thanh Châu dần náo nhiệt trở lại. Chiến loạn đã tạm dừng, bá tánh bắt đầu chăm lo cho cuộc sống. Ruộng đồng không có chuyện gì lớn, gà vịt thịt cá chất chồng. Nấu một nồi lẩu, tỷ muội nữ nhân ngồi quây quần bên nhau, người thêu thùa kim chỉ, người chơi vài ván bài. Chủ nhân tạm cho phép nghỉ ngơi, khắp nơi náo nhiệt. Giữa thế gian hỗn độn, nhiệt huyết cũng bị chôn vùi, tình cảm ôm áp dần bị đè nén.

Nhưng Tống Giản không hề vì vậy mà nhàn rỗi.

Quân đội sông Bạch Thủy sắp vượt qua Tử Kinh Quan. Tin tức cấp báo ngày nối tiếp ngày. Cũng lúc này, thư của Xưởng thần Đông Xưởng Lương Hữu Thiện cũng được gửi đến Thanh Châu. Lúc này Lương Hữu Thiện đã nắm giữ Tư Lễ Giám, trở thành người lãnh đạo của mấy người Hoàng Động Đình. Một tay nắm Đông Xưởng, một tay sờ ngọc tỷ của tiểu hoàng đế, cùng Cố Trọng Liêm là một trái một phải, một trong một ngoài, gánh vác long ỷ của tiểu hoàng đế.

Từ thời Tống Tử Minh, Lương Hữu Thiện đã là nhân vật đức cao vọng trọng trong cung. Nhưng lúc ấy Tư Lễ Giám vẫn còn trong tay Diêm Chính Tịch. Ông ta đành phải lùi ra ngoài, cùng cẩm y vệ đối phó với đám quý tộc quan lại. Cuối năm ngoái, Diêm Chính Tịch xuất cung dưỡng lão, Lương Hữu Thiện thuận thế lên chức, trở thành Lương Chưởng ấn. Vừa nhậm chức, ông ta liền đến phủ Cố Trọng Liêm bái phỏng. Triều đình Đại Tế vẫn luôn có truyền thống như vậy. Nội các và Tư lễ giám phải cùng tiến cùng lui, nếu không thì sẽ không thể làm việc thuận tiện. Thái độ của Lương Hữu Thiện rất được lòng các đại thần trong Nội các.

Trong thư ông ta nói, triều đình vẫn chờ Tấn Vương, còn đặc biệt thưởng cho Tấn Vương một bức “Đệ Đường Đồ” của họa gia đời Đường, Bàng Tác Vĩnh. Ngoài ra còn có quà tặng Tống Giản, mượn tay người phụ trách Đông Xưởng mang một mớ quà cáp đến Tử Kinh Quan, mang đến cho Tống Giản.

Ông ta đã dâng chén muốn hòa hữu với Cố Trọng Liêm, lại âm thầm biểu đạt tâm ý với Tống Giản. Đối với Tống Giản mà nói, con người này là một cây cầu, cũng là một cái vực sâu. Y xoa xoa ngón tay cái, đang lúc suy nghĩ nên trả lời thư thế nào thì Trương quản chạy từ ngoài vào.

“Gia, tri phủ đại nhân gửi thiệp mời đến, mời ngài đến Ý Viên uống trà.”

Tống Giản buông lá thư trong tay xuống.

“Sao lại là ngươi gác cửa?”

Trương quản gia xoa xoa bàn tay. “Mọi người đều ra ngoài hết rồi. Gia à, theo tiểu nhân, ngài cũng nên ra ngoài tiêu khiển đi. Hôm nay ngoài đường náo nhiệt lắm.”

Ông ta nói vậy, Tống Giản mới nhớ ra hôm nay là mùng Tám. Tuy rằng y không muốn đón Tết, nhưng Lục Dĩ Phương cũng rất chú ý săn sóc hạ nhân trong phủ, cho các tiểu đồng và nha đầu nhỏ tuổi trong phủ ra ngoài chơi. Trong phủ chỉ còn lại mấy người Trương Càn, Tân Nô hầu hạ.

Tống Giản nhận lấy thiệp mời trong tay Trương quản gia. Y nhìn lướt qua, nhận ra người gửi là Tống Ý Nhiên.

Cuối năm con bé vừa ốm đau một trận, tới giờ vẫn phải dưỡng bệnh. Hầu như Dương Khánh Hoài đã nhốt Đỗ Hoài Như trong Ý Viên hơn nửa tháng rồi.

“Người gửi thiệp đâu rồi?”

“Đang đợi ở ngoài. Gia có lời muốn truyền sao?”

Tống Giản lắc đầu. “Không cần, bảo hắn về đi. Buổi tối ta sẽ qua.”

Trương quản gia gật đầu, vừa định nhấc chân đi đã nghe thấy y hỏi. “Người bên Tây Sương phòng sao rồi?”

Từ sau khi Trần Cẩm Liên bị phạt quỳ trước Tây Đồng đường, cô gái tên Kỷ Khương này dường như đã trở thành cấm kị của những hạ nhân Tống phủ. Không ai dám nhắc tới. Trương quản gia bất ngờ bị Tống Giản hỏi như vậy, sống lưng cũng cứng đờ.

“Để Nghênh Tú chăm sóc. Phu nhân cũng dặn một ngày ba bữa đàng hoàng. Ngài còn mời Đỗ thái y kê thuốc nữa. Hai ngày nay đã khá hơn rồi.”

Nói rồi ông ta cũng không dám nhiều lời nữa, đợi Tống Giản lên tiếng. Nào ngờ Tống Giản không nói gì, chỉ gọi người bưng nước vào, lại sai người chuẩn bị xe lăn. Trương quản gia biết, hai ngày này vết thương cũ ở chân y lại đau dữ dội, hầu như không thể tự đi được. Ông ta không dám chậm trễ, vội dặn người đi lấy nước, tự mình đi chuẩn bị xe lăn.

Bên ngoài tuyết rơi như bóng ngọc, trong màn mây tuyết lại có ánh nắng rọi xuống, cũng không lạnh lắm.

Tống Giản sợ lạnh, mặc áo rất dày, Trương quản gia tự mình đưa y đi. Đến trước cửa Tây Sương phòng, Tống Giản đột nhiên giơ tay, bảo ông ta dừng lại.

Ánh nắng sớm xuyên qua ô cửa, tưới lên mái tóc xõa trên vai Kỷ Khương. Mái tóc tựa như những sợi tơ phiêu tán tung bay, họa nên đường nét gương mặt nàng. Nàng tựa người lên giường, dạy Nghênh Tú xếp hoa.

Đó là kiểu trang trí trong cung, cách làm phức tạp, có thể xếp thành những bông hoa mềm mại đáng yêu. Nghênh Tú không hiểu được trọng tâm, cứ vò đầu bức tai, mà trong tay Kỷ Khương đã kết được vài bông hoa rất đẹp.

Năm đó y vượt qua quan đạo dài đằng đẵng, quỳ bò đến Gia Dục. Người con gái trước mắt này cũng đã phải sống sót bước ra từ vũng bùn lầy lội tanh tưởi. Thế nhưng y hầu như đã trở thành một con người khác, mà từng ánh mắt nụ cười của Kỷ Khương nay vẫn hệt như năm đó, khi y vén khăn hỉ lên, miệng mỉm cười duyên dáng, mắt xinh đen trắng sáng ngời.

“Gia, hay tiểu nhân vào truyền lời nhé.”

“Không cần, rời phủ thôi.”

Y vừa định đi, Nghênh Tú ngồi trước ô cửa lại nhìn thấy y, vội vàng hành lễ.

Kỷ Khương thấy vậy cũng cố ngồi dậy. Nghênh Tú quay đầu, nhìn thấy nàng vẫn cử động khó khăn, nhưng lại không dám dìu nàng.

Miệng vết thương của Kỷ Khương vừa khép miệng, vừa động thì đau đớn khắp người. Nàng phải chống lên bàn ghế, bước từng bước ra ngoài, sau đó chống tay lên cửa, bắt chước Nghênh Tú hành lễ.

“Gia, phải đi sao?”

Nàng hỏi rất tự nhiên, tựa như người khiến nàng chịu hình bốn mươi trượng ngoài trời tuyết không phải là Tống Giản vậy.

Tống Giản nhìn nàng. Lâu như vậy, đây mới là lần đầu y thật sự nhìn nàng. Nàng mặc trung y màu trăng non, áo ngắn bằng vải lăng màu hồng. Lúc dưỡng thương không thể điểm trang, lại trải qua một cửa sinh tử, sắc mặt cũng trắng bệch. Nhưng nàng vẫn luôn là một nữ tử xinh đẹp. Nét đẹp này hoàn toàn khác biệt với Trần Cẩm Liên.

“Cô xuống giường được rồi?”

“Vâng, nhờ phúc của gia cả.”

Câu nói này nàng từng nghe rất nhiều lần trong cung, giờ nói ra cũng chẳng hề lắp. Nàng chống tay lên ô cửa, đứng thẳng người.

“Dưỡng thêm mấy ngày là có thể bưng trà cho gia rồi.”

Tống Giản cười cười. “Cô muốn vào Tây Đồng Đường à?”

Nàng cũng bật cười. “Gia không cho ta vào thì ta đứng ngoài hầu hạ vậy. Nghe nói con đường bên ngoài Tây Đồng Đường không được có tuyết. Ta có thể giúp ngài trông coi con đường đó.”

Y không biết nên trả lời nàng thế nào. Dáng vẻ, ngôn từ, thái độ này không hề có bất cứ lỗi sai nào. Nàng giống như liều mạng trong tuyết để nhớ hết tất cả những gì diễn ra trong Tống Phủ. Ngay cả việc con đường bên ngoài Tây Đồng đường thường phải đẩy xe lăn, cho nên không được có tuyết nàng cũng biết.

“Gia, ngài sắp đi đâu ạ?”. Thấy y không nói gì, nàng lại hỏi thêm một câu.

“Dương tri phủ mời đi dự tiệc đầu năm. Phải rồi, cô lãnh trượng của hắn ta, vẫn còn chưa cảm tạ đấy.”

Y lựa lời chế nhạo nàng, nghe ấu trĩ biết bao, nhưng y vẫn thốt ra thành lời.

Giống như y muốn, gương mặt Kỷ Khương dần ửng đỏ. Nàng hạ tầm mắt xuống, không tiếp lời y nữa.

Tống Giản thỏa mãn, liền muốn nhắc tới một chuyện khác. Y mở lời nói: “Lâm Xuyên, ta hỏi cô, Cố Hữu Hối có quan hệ gì với cô?”

Y nhắc tới Cố Hữu Hối, Kỷ Khương liền ngây ra, ngón tay vô ý thức mà chạm vào chiếc nhẫn ngọc phù dung.

Đến nay nàng vẫn không rõ lai lịch chiếc nhẫn này, cũng không biết nhiều về Cố Hữu Hối. Vậy phải nói thế nào đây? Nói sự thật tất nhiên là không được. Còn nói bừa thì Tống Giản sẽ phái người kiểm chứng.

Nàng đành nói một nửa. “Nô tì gặp huynh ấy ở Trường Sơn. Lúc đó gặp phải sơn tặc, Cố thiếu gia đã cứu mạng nô tì.”

Tống Giản nhìn chăm chú vào đôi mắt nàng. “Cô biết thân phận của hắn không?”

Kỷ Khương gật gật đầu. “Biết một chút. Huynh ấy là con trai duy nhất của Cố trọng phụ.”

“Cô đã biết vậy mà còn dám qua lại với hắn?”

Lúc nói câu này, y lên giọng rõ ràng.

Vì sao lại qua lại với hắn? Kỷ Khương nghĩ tới dáng vẻ tiêu sái của Cố Hữu Hối, lại nhớ tới câu nói thật tựa như đùa: “mạng của cô cũng là mạng của ta”. Nàng thật sự không biết phải trả lời Tống Giản thế nào.

Nàng dứt khoác tránh đi ánh mắt y, nhẹ giọng nói: “Gia không cho phép nô tì qua lại với huynh ấy thì sau này nô tì không qua lại với huynh ấy là được.”

Câu này quả thật tuyệt diệu, thoáng chốc đã xóa bỏ cảm giác ghen tị trong lòng Tống Giản.

Tống Giản không nói gì. Nghênh Tú cũng không biết chuyện gì đang diễn ra. Trương quản gia thoáng nhìn con đường ra ngoài, biết Tống Giản không dừng câu chuyện được, vội nói. “Gia à, đi thôi. Một lát tiểu thư lại sai người đến giục đấy.”

Tống Giản nhìn Kỷ Khương, nàng vẫn đứng trước cửa, ánh mắt thăm thẳm khó dò.

“Ta đi đây. Chuyện này sau này ta sẽ từ từ hỏi cô.”

Bữa quởn nên mình lướt lại một lần, sau đó phát hiện Hối nhỏ tuổi hơn Khương thiệt bà con ạ. Không biết tác giả có nhầm mốc thời gian không, nhưng mình vẫn quyết định giữ lại cách gọi huynh xưng ta của Tiểu Khương với Hối. Mình nghĩ Khương từ bé đã được dạy dỗ lễ nghĩa, hơn nữa còn được Hối cứu, quan hệ không xa lạ nhưng cũng không thân thiết mấy nên cách gọi này xem như sự tôn trọng Khương dành cho Hối. Mình giải thích trước để sau này mọi người không ngã ngửa ra đó nhe.

 

Thứ dân | Chương 12

THA DỮ ĐĂNG

Dịch: Tịch Dương Mùa Hạ

thu-dan-12

“Làm thần phải không? Cho dù là thần, ta cũng phải lật trời lật đất Đại Tề này lên.”

CHƯƠNG 12: LÂM XUYÊN

Hỏa thiêu? Nghĩa là sắp chết rồi ư?

Tống Giản đứng bật dậy, chiếc thảm vốn đặt trên chân cũng rơi xuống nền đất. Tuyết vẫn đang rơi bên ngoài, men theo khe cửa sổ thấm vào phòng, mỗi luồng khí đều thấm vào tận xương tủy. Y không khỏi khom lưng ấn vào đầu gối.

Trên đời có những người ban tặng ân tình, ví như Tống Ý Nhiên, ví như Lục Dĩ Phương, thậm chỉ cả Trần Cẩm Liên ngây thơ ngốc nghếch nọ. Cũng có người chỉ mang tới đau thương và thống khổ, hủy hoại cả thân thể và tâm hồn, nhưng lại không thể tùy ý hóa giải chỉ bằng con đường “chết” được.

Cổ họng Tống Giản tựa như bị rót đầy một bình rượu mạnh.

“Trương Càn!”

“Có tiểu nhân, gia có gì dặn dò ạ?”

“Đến Tấn Vương phủ, tìm Đỗ Hòa Như đến đây cho ta.”

Đỗ Hòa Như là thái y mà Tấn Vương đưa từ Đế Kinh đến Thanh Châu. Thường ngày nếu không có chuyện quan trọng, rất ít khi mời ông ấy đến phủ. Trương quản sự chần chừ hồi lâu, đành hỏi thêm một câu. “Gia, nên ghi thiếp mời thế nào ạ? Tiểu nhân nghe nói, hai ngày trước sức khỏe tiểu thư nhà chúng ta không tốt, Dương tri phủ đã mời Đỗ lão gia sang bên đó kê thuốc rồi. Hôm nay lại là Trừ tịch, chúng ta lại mời nữa, sợ là Đỗ lão gia sẽ hỏi thêm nữa đấy ạ.”

Trong lòng Tống Giản vừa bực bội lại vừa nôn nóng. “Ngày thường đều là ta giữ thể diện cho Tấn Vương. Các ngươi cứ lấy tên lão gia ta ra. Chỉ cần xách người tới đây là được. Không trị khỏi cho cô ta thì trói lại, ném tới Tử Kinh Quan.”

Nói rồi, y lại vươn tay, sờ sờ chiếc áo choàng hồ ly trên giá gỗ, lại không tìm thấy. Lúc này y mới nhớ ra, Trần Cẩm Liên đã choàng áo chạy ra ngoài rồi. Tống Giản bực dọc, cất giọng lạnh lẽo: “Trần Cẩm Liên đâu rồi? Kéo ra ngoài phạt quỳ đi.”

Không ai dám lên tiếng, từng người tuần tự lui ra, việc ai nấy làm. Tân Nô thấy vậy liền tự mình bước vào, giúp y mặc y phục, trong lòng không khỏi cảm thán ánh mắt và thủ đoạn của Lục Dĩ Phương.

Hôm nay là ngày Trừ tịch, cuối cùng trời cũng trong xanh. Nhưng vì e ngại tuyết rơi, gió lạnh thổi vào xương, mỗi tấc da thịt lộ ra ngoài đều sẽ rét như kim châm, thế nên trong Tây Sương phòng đốt đến bốn năm chậu than. Nghênh Tú lại lấy mấy mảnh da vụn che chắn cửa sổ. Trong phòng ấm áp, cơ thể Kỷ Khương nóng hực, có lúc lại co giật bất thường.

Dược bà và Vu đại phu đều đã bó tay.

“Ông trời muốn lấy mạng rồi. Phu nhân, nếu trong phủ có kiêng kị thì nên tranh ngủ ngày lành chuyển đi thôi.”

Lục Dĩ Khương đang ngồi trước giường.

Lần trước nàng ta gặp Kỷ Khương cũng đã là chuyện mười mấy năm trước rồi. Lúc đó nàng ta vẫn là Tư tịch ở Thượng Nghi cục, phụng chỉ làm nữ sư của Lâm Xuyên công chúa. Nàng ta có thể nhìn thấy thứ được gọi là “Nữ quân tử” mà thế nhân xưng tụng mình trên người Kỷ Khương. Vinh quang hoàng thất và sự xa hoa lãng phí của triều đình hoàn toàn thể hiện rõ trên người nàng công chúa duy nhất của tiên đế. Sự tồn tại của nàng tượng trưng cho sự tao nhã cực độ của hoàng triều Đại Tề, cho thứ văn hóa vô dụng đã lưu truyền qua tháng năm.

Mà nay, nàng hấp hối nằm trước mặt Lục Dĩ Phương, khiến nàng ta có một loại cảm giác đóa hoa mai bị giẫm nát.

“Bẩm với gia chưa?”

Nghênh Tú nói: “Tân Nô tỷ tỷ đi rồi ạ, còn chưa về.”

Lúc hai người đang trò chuyện, bên ngoài đã có người hô lên: “Tới rồi, tới rồi!”

Lục Dĩ Phương quay đầu lại, thấy Trương quản sự vừa chạy vào vừa thở dốc, trên chiếc mão màu trắng nóng hừng hực.

“Cái gì tới?”

Trương quản sự đứng trước cửa, thở thêm hai hơi mới chỉ tay ra ngoài nói: “Gia bảo đưa Đỗ lão gia, à không, Đỗ thái y đến. Giờ đã xuống xe rồi. Phu nhân, các cô nương, mau tránh đi đi.”

Lục Dĩ Phương đứng lên. “Không có gì phải tránh cả, mời vào đi. Bệnh nhân cũng là nữ tử. Chúng ta ở đây, Đỗ lão gia mới dễ làm việc.”

Vừa nói thì Đỗ Hòa Như đã bước vào. Ông gần như bị Trương quản sự lôi từ gia yến ra, vội đến mức người bệnh là ai cũng không nói cho ông biết. Trên đường đi ông cứ cho rằng vị tiểu thiếp nào đó bị bệnh, ai ngờ sau khi vào phủ lại bị dắt đi lòng vòng tới Tây Sương phòng này.

Trong lòng ông chẳng thoải mái chút nào.

Khi ở kinh thành, ông chính là thái y. Ngày thường xem bệnh cho nữ tử, nếu không phải là vương phi thì cũng là cáo mệnh phu nhân. Hôm nay Tống Giản cố ý nhục nhã ông ư? Kéo ông từ gia yến đến đây, hóa ra chỉ để xem bệnh cho một nô tì.

Dù lòng ông nghĩ thế thì miệng cũng không dám nói ra lời, đặc biệt là khi nhìn thấy Lục Dĩ Phương cũng ngồi trong này, vẫn phải cung kính làm lễ chào hỏi, sau đó mới đi đến bên giường.

Tóc người nằm trên giường đã bị mồ hôi thấm ướt, rơi tán loạn trên mặt.

Đỗ Hòa Như nói: “Ôi, phải vén lên cho ta xem mắt chứ?”

Lục Dĩ Phương đứng lên. Nghênh Tú nửa quỳ bò đến, vén tóc trên mặt Kỷ Khương lên. Đỗ Hòa như vừa nhìn thấy gương mặt trắng bệch, đột nhiên cảm thấy hồi hộp. Gương mặt này rất quen.

Ông từng làm việc trong cung, đã gặp Kỷ Khương rất nhiều lần. Ở Thanh Châu, ông từng nghe nói đến chuyện công chúa bị biếm truất, nhưng dù thế nào cũng không ngờ lại ở chỗ Tống Giản.

Ông ngẩng đầu nhìn Lục Dĩ Phương.

“Chuyện này…”

Lục Dĩ Phương vẫy tay. “Đỗ lão gia, ông đã nhận ra rồi thì phải biết thái độ của gia chúng tôi đối với cô ấy là gì. Chữa trị cho tốt. Hôm nay nếu cô ấy chết, ngài cũng không về được Tấn Vương phủ đâu.”

Giọng Lục Dĩ Phương không lớn, nhưng lại khiến Đỗ Hòa Như run sợ trong lòng. “Vâng, vâng. Dám hỏi phu nhân, bị thương thế nào?”

Dược bà ngồi bên cạnh nói: “Chịu trượng hình, miệng vết thương đều ở phần mềm thôi, không thương tổn tới gân cốt. Hôm qua ta và Vu đại phu đã rửa sạch, bôi thuốc cho nàng ấy rồi.”

Vu đại phu tiếp lời: “Bị thương nặng như vậy, sốt cũng không sao, nhưng quan trọng là hơi thở của nàng ấy mỗi lúc một yếu hơn. Tiểu nhân tài hèn sức mọn, ngài có nhiều cách hơn, mau xem cho nàng ấy với.”

Đỗ Hòa Như khom người ngồi xuống, nói với Nghênh Tú, “Hãy đưa tay tiểu thư ra.”

Nói rồi bèn lấy từ hòm thuốc ra một mảnh lụa trắng, phủ lên cổ tay Kỷ Khương, cẩn thận bắt mạch một hồi mới đứng lên nói với Lục Dĩ Phương. “Tiểu thư đường xa vất vả, vốn đã hao mòn thân thể, lại thêm việc ngày đông chịu hình trượng, thời tiết lạnh như thế, vết thương bị viêm, khó lành lắm.”

Lục Dĩ Phương nói: “Ngài cứ nói trị thế nào đi. Trong phủ có thì lấy, nếu trong phủ không có, ngài cứ nói, ta sẽ bảo người ra ngoài mua.”

Đỗ Hoa Như nói: “Được, ta liền ra ngoài viết đơn thuốc. Hôm nay là ngày nguy hiểm nhất. Phu nhân nhất định phải cử người chăm sóc cẩn thận, nếu đến khuya bớt sốt thì qua được một cửa. Tiểu thư có thể xem là vượt qua rồi.”

Lục Dĩ Phương bảo Trương quản sự đưa ông ấy đi.

Lúc này Tân Nô vén mành bước vào, đi đến bên cạnh nàng ta, khom người nói: “Phu nhân, gia đến rồi.”

—Tịch Dương Mùa Hạ—

–oo0oo–

Lúc Kỷ Khương tỉnh lại, trời đã về đêm.

Đình viện Tống phủ nằm rất sâu trong thành, nhưng dù sao cũng là ngày Trừ tịch, nhà nhà đều lần lượt đốt pháo. Trong phủ Tống Giản không đón Tết, vì vậy chỉ có ánh đèn leo lét, hai bên đối lập, cho người ta cảm giác cố tình thoát ly khỏi nhân gian thế tục, giống như dòng nước trong vắt chảy ra từ vách đá.

Kỷ Khương cử động chân, may mà đùi còn có cảm giác. Nàng nhẹ giọng ho một tiếng, định ngẩng đầu.

Lại nghe có người nói: “Nghênh Tú, lấy nước cho cô ta.”

Kỷ Khương giật mình, nàng nâng cằm, nhìn thấy Tống Giản ngồi bên giường. Trong phòng có đốt than ấm áp, y đã cởi bỏ áo ngoài, chỉ mặc thường phục màu xanh. Chỉ có trên đùi là phủ thêm một tấm thảm lớn.

“Khụ, Tống Giản… Chàng vẫn không để ta chết nhé.”

Tống Giản cúi đầu nhìn nàng, ánh đèn lóe lên trong đôi mắt y, như dung nạp vô số ánh sao nhật nguyệt của ba năm trước, toàn bộ đều loạng choạng dấy lên trong ký ức.

“Cô gọi ta là gì?”

Kỷ Khương thở ra một hơi. “À, đúng rồi nhỉ. Gia, ngài vẫn không để ta chết nhé.”

Thế mà nàng vẫn dùng thái độ đó, trong ánh mắt không hề sợ hãi, cũng không hoảng hốt. Tống Giản không hiểu, vì sao đã đoạt mất thân phận công chúa của nàng, thậm chí bắt nàng phải nhục nhã chịu hình trước mặt mọi người, nhưng vẫn không thể lột bỏ đi thứ ánh sáng vô hình rực rỡ kia.

“Lâm Xuyên, trước giờ công chúa đều không nhịn nhục mà sống. Dáng vẻ bây giờ của cô thật sự là nỗi ô nhục của Đại Tề các người.”

Sắc mặt Kỷ Khương tái nhợt, nàng cười cười. “Ta đã không phải là công chúa nữa rồi, ta cũng không muốn chết. Nếu ta chết rồi, ai sẽ thực hiện ước định với gia đây?”

“Làm thần phải không? Cho dù là thần, ta cũng phải lật trời lật đất Đại Tề này lên.”

“Vậy ngài phải mang theo ta đi cùng, khiến ta tận mắt nhìn thấy, như vậy mới càng thoải mái phải không?”

Một câu này của nàng khiến thời gian tựa như lùi lại rất nhiều năm trước. Trước đây trong phủ công chúa cũng thế, lúc tranh cãi, nàng chưa bao giờ chịu thua. Y nhường nhịn nàng ba năm. Suốt ba năm, lại chỉ đổi lấy một màn huyết tanh hỗn độn.

Tống Giản ngẩng đầu, ép bản thân mình phải giữ giọng điệu bình thường.

“Lâm Xuyên, chờ cô khỏe lại, ta nhất định phải thưởng cho cô một trận đòn nữa. Tới lúc đó, ngay cả một lớp quần áo này, ta cũng không giữ lại cho cô đâu.”

Âm cuối vừa dứt, tách trà trong tay Nghênh Tú cũng loạng choạng lắc lư. Cô ấy không hiểu quan hệ giữa hai người này, đương nhiên cũng không thể mở miệng khuyên gì. Trong phòng lặng lẽ trầm mặc. Kỷ Khương hé môi, thở dốc mấy bận. Nghênh Tú lặng lẽ liếc nhìn Tống Giản, thấy y không nói gì, liền buông khay trà xuống, dìu Kỷ Khương dậy. Đợi đến khi nàng thở an ổn liền tận tay bón hai ba miếng nước cho nàng.

“Gia…”

Nàng thở gấp, vẫn gọi y một tiếng như thế.

“Nói đi.”

“Nô tì…”

Nàng sặc một tiếng. Lúc nói đến từ tự xưng này, ánh mắt nàng thoáng ửng hồng. Nàng vội quay mặt đi, nhìn sang hướng cửa sổ.

“Nô tì nhận lỗi với ngài được không?”

Tống Giản ngẩn ra. “Cô nói gì?”

“Ta không muốn bị đánh nữa. Ta không muốn… cứ phải nằm như thế.”

Tống Giản không hiểu nổi nàng. Y không biết nàng thật sự chịu thua hay chỉ giả vờ trước mặt mình.

Lúc này y lại nghĩ tới Cố Trọng Liêm, người đàn ông đứng sau lưng thái hậu, kẻ tự xưng là bạn thâm giao của phụ thân mình, sau khi phụ thân chết lại một bước trở thành người đứng đầu triều đình.

Ông ta khuyên Hứa Thái hậu để Kỷ Khương ra khỏi cung đến Thanh Châu, lại bảo tên tiểu tử Cố Hữu hối đi theo. Cho nên liệu có bàn tay Cố Trọng Liêm sau lưng Kỷ Khương hay không? Triều đình phức tạp thế nào, y đã nhìn thấy. Chính trị có thể vùi dập cuộc đời của một người. Y có thể sai một lần, nhưng không thể sai lần thứ hai.

Nghĩ vậy, trong lòng y lại lạnh lẽo.

“Gọi Tân Nô vào đây!”

Nghênh Tú vâng lời đi ra ngoài. Không lâu sau, Tân Nô đã bước vào, hành lễ trước mặt Tống Giản.

“Gia, ngài gọi nô tì?”

“Ta giao cô ta cho ngươi. Đợi cô ta khỏe lại dắt cô ta đến gặp phu nhân và mấy phòng khác.”

Nói rồi, y cúi đầu nhìn nàng. “Cô ta đã là nô tì, ngươi cứ sắp xếp cô ta theo quy định. Gia không muốn thấy cô ta an ổn, ngươi hiểu chưa?”

Tân Nô gật gật đầu. “Vâng, nô tì biết rồi. Còn nữa, phu nhân bảo nô tì hỏi gia một tiếng. Nô tì trong phủ ta đều lấy chữ ‘Nghênh’ làm chữ đầu. Với cô ta, gia có ý gì khác không ạ?”

Tống Giản đứng dậy.

“Cô ta thì không cần đổi. Hai chữ Lâm Xuyên này, gia gọi quen rồi.”

Thứ Dân | Chương 11

THA DỮ ĐĂNG

Dịch: Tịch Dương Mùa Hạ

thu-dan-11

“Bổn thiếu gia cho cô biết, bổn thiếu gia ta là người của nàng ấy đấy.”

CHƯƠNG 11: HUYẾT NHỤC

Đúng vậy, với hắn mà nói, thứ hắn quan tâm chỉ là tính mạng Kỷ Khương, cho nên không chết là tốt. Không chết là tốt rồi.

Nghĩ rồi hắn lại uống một ngụm trà, miễn cưỡng lắm mới đè nén được sắc mặt đỏ tới kỳ lạ xuống. Khí thế của người trong giang hồ đều dựa vào sự uy hiếp của kiếm khí. Trước đây Cố Hữu Hối vẫn luôn cảm thấy, cơ thể phái nữ quá thơm ngọt, một khi dính phải sẽ giống như bị trúng độc cốt miên (1) vậy, dù cho có cứng rắn lạnh lùng đến thế nào cũng sẽ thối rữa thành bùn nát mất.

Không phải hắn chưa từng giao thiệp với phái nữ, nhưng mỗi lần nói chuyện thì các cô gái đều giống như tiếng mưa rơi tí tách trên bàn tiệc. Bọn nam nhân đều là người phiêu bạt giang hồ, một mình cô độc, chẳng mấy ai có ôn hương nhuyễn ngọc ủ ấm trong chăn.

Thế là huân hào, tên húy(2) của nữ nhân, chữ chữ đều phong lưu nóng bỏng buông ra. Trong những buổi tiệc rượu vẩn đục ấy, ôm thân thể ấm áp trong tay cũng sưởi ấm trái tim dao động của thiếu niên, rồi lại hóa thành những cơn mưa lạnh lẽo. Đối lập với lưỡi kiếm cứng cỏi, nữ nhân giống như một dấu hiệu đánh dấu thuở thiếu niên ngông cuồng, chưa rõ tiền đồ ấy.

Cho nên rốt cuộc phái nữ là gì, Cố Hữu Hối không rõ. Hắn cũng không muốn hiểu rõ, nhưng cảm giác khí huyết xông thẳng lên não này là từ đâu tới? Hắn trở tay, dùng chuôi kiếm gãi đầu, miệng do dự nói: “Bổn thiếu gia tin phụ nhân như cô một lần đấy.”

Nói rồi hắn xoay người bước ra ngoài. Bọn tiểu đồng canh gác bên ngoài sợ hãi, thi nhau nhường đường cho hắn. Trong lòng hắn có cảm xúc khó hiểu, hoàn toàn không còn khí thế chém giết như lúc đi vào nữa, thậm chí còn vướng phải chậu tùng vân trước cửa mà trượt ngã.

Chớp mắt, ngay cả Tân Nô cũng không nén được mà cười ra tiếng.

Cố Hữu Hối đứng thẳng dậy. Hắn đi vòng trở lại, bước nhanh đến trước mặt Lục Dĩ Phương nói: “Nếu cô dám lừa ta, khiến nàng ấy mất mạng, bổn thiếu gia bảo đảm sẽ khiến cả đời này Tống Giản không thể đứng dậy nổi đấy.”

Nói xong mấy lời này, cảm thấy khí thế còn chưa lấy lại đủ thể diện bèn hơi ngừng lại, nói tiếp. “Bổn thiếu gia cho cô biết, bổn thiếu gia ta là người của nàng ấy đấy.”

Thốt ra câu này xong lại cảm thấy hình như có chỗ nào đó không đúng.

Hắn lại nhìn xung quanh, tiểu đồng vừa rồi còn nghiêm túc đều phòng hắn xoay mặt nhìn nhau, sau đó không nén được mà bật cười. Cố Hữu Hối nhắm mắt, nghiến chặt răng, thở ra một luồng khí lạnh, hận không thể cho mình một bạt tai.

Lục Dĩ Phương mỉm cười nhìn hắn, nhẹ khom người khuỵu xuống.

“Cố thiếu gia an tâm.”

Những lời tàn nhẫn nhất đều đã nói hết, lời không nên nói cũng đã nói xong, còn không đi nữa thì sẽ mất hết mặt mũi mất. Hắn cũng không muốn gặp Tống Giản, sẽ bị gã này chế nhạo. Cố Hữu Hối vừa nghĩ vừa vỗ đầu mình, xoay người đi thẳng ra ngoài.

Lục Dĩ Phương bước vài bước tiễn hắn, mãi đến khi ra tới trước viện, lúc này mới thở phào nhẹ nhõm.

“Đi!”

Tân Nô quỳ xổm xuống, phất áo choàng hồ ly cho nàng ta. “Phu nhân, vị Cố thiếu gia này…”

Lục Dĩ Phương ủ tay trong tay áo, cười cười. “Chỉ sợ là oan nghiệt.”

Nói rồi, nàng ta cúi đầu nhìn người đang quỳ bên chân. “Ngươi đứng lên đi. Hôm nay không cần hầu hạ ta, đến trông Tây Sương phòng đi. Dù thế nào cũng phải kéo được mạng cô ta về.”

—Tịch Dương Mùa Hạ—

–oo0oo–

Trong Tây Sương phòng, ba bốn thị nữ đốt đèn lên, hong nóng đến mức ai nấy đều mắt khô mặt đỏ. Kỷ Khương nằm trên giường, nàng đã sốt đến mê man. Vu đại phu đứng bên cạnh, ông khoanh hai tay lại, hoàn toàn không biết nên làm sao cho phải.

Người nằm trên giường là nữ tử, lại bị thương ở những chỗ tế nhị. Hơn nữa vì nàng nằm trên nền tuyết đã lâu, miệng vết thương kết sương dính vào quần, tới chỗ ấm nóng lại tan ra, cứ một lần rồi hai lần, không cần nhìn cũng biết, hẳn đã thê thảm đến máu thịt mơ hồ.

Ông ta biết, những cô gái trong Tống phủ, cho dù là nô tì thì cũng xinh xắn hơn gia đình bình thường rất nhiều. Vị cô nương này lại do Tống Giản đến nha môn phủ Thanh Châu đưa về, còn chưa rõ ẩn tình trong đó thì làm sao dám động vào.

“Đại phu, mời ngài tới là để ngài kê đơn thuốc. Ngài không thể chỉ đứng đó mãi được.”

Vu đại phu lau mồ hôi trên đầu. “Biết, biết, nhưng mà… Ôi chao, sợ là các người nên đi tìm y bà tới đi. Vết thương của vị cô nương này không thể xem được. Ta…”

Thị nữ Nghênh Tú đang cầm đèn nói: “Ngài nói thử xem có nghiêm trọng tới tính mạng không, chúng tôi đi bẩm phu nhân xem.”

Vu đại phu nói: “Ôi chao, chuyện này cũng khó nói lắm. Hôm nay tuyết lớn, có thương tích liền bị hàn, miệng vết thương lại không xử lý tốt, ngày mai trở viêm thì cũng có thể mất mạng.”

Nghênh Tú vươn tay sờ trán Kỷ Khương, nóng tới muốn bỏng tay, còn dính mồ hôi lạnh.

“Vậy không được, ta phải về báo với phu nhân.”

“Đã giờ này rồi, phu nhân chắc đã đi nghỉ. Hơn nữa ý của gia là cứ để nàng ta nằm đó. Nghênh Tú, cô đừng nhiều chuyện.”

Nghênh Tú rút tay lại, đặt ngọn đèn lên tay người đứng cạnh.

“Thế nào cũng phải đến xin Tân Nô tỷ tỷ một tiếng. Đây là trượng nha môn đánh, nhất định không giống quy định trong phủ chúng ta. Hình trượng không phải chỉ là dạng dạy dỗ người khác nghe lời thôi mà là dùng gỗ chắc chắn, đánh xuống là lấy mạng người thật đấy.”

Vừa nói xong, tiểu đồng canh giữ ngoài cửa đã đẩy mành ấm ra. “Tân Nô tỷ tỷ đến rồi.”

Tiếng theo cùng người, Tân Nô vừa bước vào vừa tiếp lời Nghênh Tú.

“Không cần hỏi ý phu nhân nữa, nên dùng dược, nên mời y bà, đều phải lập tức làm hết.”

Nói xong, nàng ta dời ngọn đèn sang, hướng về phía người nằm trên giường.

Mặt Kỷ Khương bị sốt đến đỏ bừng, làn môi khô xám xịt, lồng ngực nàng phập phồng, hơi thở ra cũng nóng hổi.

“Sao lại thành thế này?”

Vu đại phu nói: “Nóng tới sốt, miệng vết thương lại không thể động đến. Cô nương này rốt cuộc có quan hệ gì với gia các người? Cô nương cứ nói với ta, để ta còn đắn đo nặng nhẹ.”

Tân Nô nhìn ông ta một cái. “Ta bảo này Vu đại phu, ông lo cái gì chứ? Phu nhân bảo ông cứu mạng, người trong phủ bọn ta, ông không thể động vào thì mạch cũng không bắt được sao?”

Đang nói, Nghênh Tú đã vén mành bước vào. “Dược bà tới rồi.”

Mọi người vội tránh ra bên giường. Dược bà vén đệm lên nhìn, xoay người nói với Vu đại phu. “Các ngài nên ra ngoài đi, các cô nương thì đi đun nước mang tới. Lần này phải lột bỏ y phục mới bôi thuốc được. Đại phu, ngài đi chuẩn bị dược trước, bọn tôi xử lý miệng vết thương đã.

Tân Nô nói: “Trông có nghiêm trọng không?”

Dược bà này không rõ nội tình, vừa cầm kéo, bảo người tới châm thêm nến vừa nói: “Nghe nói trong phủ các người lắm quy tắc, nhưng cũng là nơi trong sạch, vì sao trách phạt một nô tì thôi mà lại đánh người ta ra thế này.”

Tân Nô cũng không muốn giải thích, chỉ đệm lời.

“Phu nhân nhà ta có lòng lương thiện, nào có làm ra tội nghiệt thế này chứ? Nàng ta phạm vào đại sai, gia bọn ta lại không muốn cho nàng ta chết. Bà để ý kỹ, sau này phu nhân bọn ta sẽ đa tạ bà.”

Dược bà này dùng lửa hơ kéo, sau đó lại nhúng vào nước ấm, cẩn thận cắt vải chỗ vết thương ra.”

“Vậy chẳng phải là sống chịu tội sao?”

Bà ta nói xong câu này, lại cảm thấy mình lắm lời, sao lại hỏi tới chuyện bí mật của những trạch viện lớn, thế là không nói nữa.

Phần vải quanh vết thương rốt cuộc đã bị cắt ra, nhìn thấy một mảng máu thịt ghê người.

“Cũng may là cô nương này xuất thân là nô tì. Nếu là người trong gia đình trong sạch, thế này thì xong rồi, sợ là chẳng sống nổi nữa.”

Tay cầm đèn của Tân Nô cứng đờ. Câu nói này chân thật, nhưng lại rung động lòng người.

Nàng ta không thể mở miệng nói, nữ tử trước mắt này chính là công chúa duy nhất của tiền triều Đại Tề.

Dường như mọi người phải vật lộn cả đêm. Đầu tiên là cắt y phục ra rửa sạch, sau đó lại kê thuốc, bôi thuốc. Nhưng từ đầu tới cuối, cơn sốt của Kỷ Khương vẫn chưa hề lui.

Canh năm hôm tiếp theo, Trần Cẩm Liên tỉnh lại trên giường, bên ngoài đã lên đèn.

Đêm qua Tống Giản hoàn toàn không chạm vào cô ta. Đây cũng là lần đầu tiên, trước đây cô ta toàn phải chịu trận trên giường.

Bóng Tống Giản chiếu lên tấm bình phong bích sa. Trời còn chưa sáng hẳn, y cũng không truyền người vào hầu hạ. Trần Cẩm Liên thử gọi thăm dò. “Gia?”

Bóng người trên tấm bình phong hơi động: “Hử?”

Trước đó Trần Cẩm Liên còn đang cân nhắc không biết y làm sao, lúc này nghe thấy y đáp lời, vội khoác áo bước xuống giường, chân trần giẫm lên địa long, vòng qua tấm bình phong ra ngoài.

Tống Giản đang ngồi trên ghế bành cạnh cửa sổ, chân phủ một tấm thảm lông lớn, trên đầu gối còn bày ra nửa quyển sách. Than trong phòng cháy hừng hực, tựa như vừa mới được thêm vào. Trần Cẩm Liên bước đến bên hành lang, nói với người gác đêm: “Nấu nước bạch thược rồi bưng đến cho gia đi.”

Giọng nói còn chưa dứt, bên trong đã truyền ra giọng Tống Giản. “Không cần vội, xem mấy trang này đã, còn ngủ được thêm vài canh giờ nữa.”

Trần Cẩm Liên liền khua tay cho người hầu đi, xoay người bước vào phòng. “Gia dậy lúc mấy giờ thế ạ?”

Tống Giản lật quyển sách đang đặt trên đầu gối, y liếc mắt nhìn ra ngoài cửa sổ. “Âm thanh tuyết rơi lớn quá, chưa ngủ được.”

Trần Cẩm Liên ngồi xuống, tựa vào bên gối y. Cô ta chỉ mặc một chiếc áo lót màu ánh trăng, khoác ngoài chính là chiếc sưởng y của Tống Giản, đôi chân thon dài như ẩn như hiện. Cô ta là người biết đắn đo. Trời vẫn còn tối, gương mặt phản chiếu ánh than hồng, hơn nữa đôi mắt vừa mới tỉnh dậy, còn mơ màng ẩn chứa tình cảm. Trần Cẩm Liên nghĩ, thế này hẳn có thể lấy lại cục diện trên giường tối qua chăng.

Tống Giản cúi đầu nhìn cô ta. “Sao vậy?”

“Thiếp… không sao cả, chỉ nghĩ tới việc gia không được nghỉ ngơi ổn thỏa. Thiếp đau lòng lắm.”

Tống Giản dùng tay niết lấy cổ cô ta.

Không biết có phải vì ngồi quá lâu không mà bàn tay y lạnh lẽo khác thường, khiến Trần Cẩm Liên rùng mình. Cô ta ngẩng đầu nhìn Tống Giản, to gan hỏi một câu. “Gia, hôm qua có gì không thoải mái sao?”

Lời vừa dứt, bàn tay Tống Giản đang đặt trên cổ cô ta dần dần siết chặt.

Hành động này không phải trêu chọc, Trần Cẩm Liên hiểu rất rõ.

Cô ta vội quỳ sụp xuống. “Gia, thiếp nhiều lời.”

Tống Giản nâng đầu nàng ta lên, ép cô ta nhìn thẳng vào mắt mình. “Lúc cô không hỏi chuyện là một nữ tử xinh đẹp.”

Trần Cẩm Liên bèn liên tục vâng dạ.

Cô ta rất sợ Lục Dĩ Phương, nhưng cô ta càng sợ Tống Giản hơn. Cô ta không hiểu, người nam nhân này có tài hoa hiếm có trong thiên hạ, cũng có một đôi mắt như trăng như sao, vốn là lương phối để những mỹ nhân xinh đẹp dịu dàng hầu y đọc sách thâu đêm. Nhưng những ngày tháng như vậy, cô ta lại không với tới được.

“Ra ngoài!”

Y buông tay, cơ thể Trần Cẩm Liên liền xụi lơ ngã xuống. Cô ta không dám chần chừ khắc nào, vội quấn chặt áo choàng chạy ra ngoài.

Ai ngờ còn chưa ra tới bên ngoài đã đụng phải Tân Nô đang tiến vào. Sắc mặt nàng ta hoảng hốt, suýt chút nữa đã lao vào ngực Trần Cẩm Liên. Nàng ta thấy Trần Cẩm Liên y sam hỗn độn, cũng không thể hỏi nhiều. Thị nữ bên ngoài vén mành ấm, nàng ta bèn bước nhanh vào.

“Gia, bên Tây Sương phòng không ổn, cũng là chuyện một hai canh giờ rồi. Phu nhân bảo tiểu nhân đến hỏi gia một tiếng, phu nhân tự làm chủ, đem đi hỏa thiêu hay thế nào ạ?”

(1) Xuất phát từ Hóa cốt miên chưởng, một loại độc thần công xuất phát từ các tiểu thuyết gia của trường phái võ hiệp. Người bị trúng phải sẽ từ từ mất tri giác, sau đó người mềm nhũn như bông.

(2) Huân hào là tên thường gọi, tên húy là tên họ thật.

Hôm qua mình quên ngày tháng mất nên hôm nay đăng bù nhé. Hihi.

Thứ Dân – Chương 10

Tha Dữ Đăng

Dịch: Tịch Dương Mùa Hạ

thu-dan-11

“Giữa Tống gia và Đại Tề chỉ có ân oán, nhưng giữa gia và Lâm Xuyên nào đâu chỉ có ân oán thôi.”

CHƯƠNG 10: ĐỘNG TÂM

Lúc tiếng trống canh vang lên lần đầu, tuyết cũng dần ngừng rơi.

Lưu Dĩ Phương đang thêu giày dưới ngọn đèn, Trần Cẩm Liên vừa cầm đèn vừa ngáp, ngồi cạnh nàng ta.

Trần Cẩm Liên mới gả cho Tống Giản chừng ba bốn tháng, tuổi còn trẻ, cũng rất xinh đẹp, là do Lục Dĩ Phương tuyển lựa gắt gao mới chọn ra được, nạp nàng ta làm thiếp thất giúp Tống Giản. Tống Giản không có lòng với chuyện nam nữ, Lục Dĩ Phương lại cứ mải miết nạp thêm mỹ thiếp cho y. Đối với Lục Dĩ Phương mà nói, nàng ta đã qua tuổi ba mươi, chuyện tình yêu nam nữ gì đó chỉ là thứ phàm tục nông cạn. Thứ nàng ta muốn nắm giữ chính là một ngôi nhà vừa to lớn lại phức tạp, kẻ tới người đi không dứt. Chỉ có như vậy mới không cô phụ trái tim linh lung tinh xảo mà nàng ta tu dưỡng được trong cung đình Đại Tề.

Trên mặt giày thêu vãn mai, là mẫu mà Tống Ý Nhiên rất thích. Lục Dĩ Phương thêu rất tỉ mỉ, trước sau mất hơn nửa tháng, tới nay vẫn chỉ mới được một nửa.

Mắt Trần Cẩm Liên đã muốn sụp xuống, đầu cũng gà gật bên ngọn đèn, khiến ánh lửa lập lòe trước mắt Lưu Dĩ Phương.

Lưu Dĩ Phương ngừng tay, nghiêng đầu nhìn cô ta.

Trần Cẩm Liên vội ngồi thẳng dậy. Từ lâu cô ta đã biết sự nghiêm khắc và soi mói của Lưu Dĩ Phương. Ngày thường nếu nàng ta không gọi, mấy tiểu thiếp nhỏ như cô ta đều không dám bén mảng tới nhà chính. Cũng không biết vì sao hôm nay Lục Dĩ Phương lại nhớ tới cô ta, bảo cô ta tới hầu hạ kim chỉ. Xem như cô ta đã lên tinh thần mười hai vạn phần rồi, nhưng kiểu lao động chân tay tỉ mỉ này thật sự khiến mắt người ta không sao mở nổi.

“Phu nhân, thiếp…”

Đối diện với ánh mắt Lưu Dĩ Phương, nàng ta không dám chần chừ khắc nào, vội cúi người buông đèn dầu xuống, quỳ hành lễ. “Thiếp ra ngoài tuyết một lát cho tỉnh táo tinh thần rồi lại vào hầu người.”

Lưu Dĩ Phương ủ tay trong chiếc áo choàng da hồ ly, hỏi thị nữ bên cạnh: “Gia hồi phủ chưa?”

Thị nữ trả lời: “Sắp về rồi ạ. Trương quản sự kéo ngựa về. Nghe nói bên kia đang chuẩn bị nước.”

Tống Giản có thói quen này. Trước khi đi ngủ nhất định phải tắm rửa.

Lục Dĩ Phương ‘ừ’ một tiếng. “Có gọi người tới hầu hạ chưa?”

“Chưa nghe Trương quản sự nói.”

Lục Dĩ Phương vỗ vỗ lên tay Trần Cẩm Liên. “Cô sang hầu hạ gia tắm gội đi.”

“Sao ạ?”

Trần Cẩm Liên không ngờ, Lục Dĩ Phương tốn hơn nửa ngày là muốn chuẩn bị điều này cho mình. Nhưng rốt cuộc đây có phải là chuyện tốt hay không, hiện giờ cô ta vẫn chưa phân biệt rõ.

“Phu nhân, hôm nay gia có hứng thú…”

Nàng ta dùng hai chữ hứng thú này, lặng lẽ thăm dò tới chuyện giường chiếu, nghe tê tê dại dại, mang chút cám dỗ nghênh đón mà vờ như cự tuyệt, lại có chút rụt rè thăm dò.

Lục Dĩ Phương nhìn cô ta một cái. Hai má Trần Cẩm Liên ửng đỏ, mê hoặc lòng người. Nữ tử trẻ tuổi thật tốt, chỉ một câu trêu chọc đã có thể động tình, phong tình vạn chủng.

“Gia… Hôm nay tâm tình không tốt lắm. Bảo cô sang đó là vì muốn cô giúp gia giải tỏa.”

Kiến thức Trần Cẩm Liên nông cạn, tâm tư cũng không phức tạp như Lưu Dĩ Phương, hoàn toàn dựa vào bộ ngực mượt mà trơn bóng như ngọc và vòng eo nhỏ có thể nắm bằng một tay mà lên được giường Tống Giản. Trước đó cô ta nghe nói hôm nay Tống Giản vốn không định ra ngoài, sau đó lại nghe nói có người họ Cố đến tìm, đánh Trương quản sự một trận trước cửa phủ, Tống Giản mới ra ngoài.

Kết quả là vừa đi liền tới tối mới về tới nhà.

Cô ta là kiểu người chỉ chịu ngọt, không gánh nổi lời lẽ sắc bén của chủ nhân. Nghĩ tới chuyện này, trong lòng liền sợ hãi, bẽn lẽn làm dáng. Lục Dĩ Phương lại không kiên nhẫn, đúng lúc Tân Nô vừa trở về từ chỗ Tống Giản, vẻ mặt cũng không tốt lắm.

Lục Dĩ Phương liền bảo người tống Trần Cẩm Liên ra ngoài.

Tân Nô thấy đã có người đi bưng nước, liền bước đến bên bàn trà cởi vòng tay ra, chuẩn bị rửa mặt cho nàng ta. Theo quan niệm của nàng ta, chủ tử không hỏi, nàng ta tuyệt đối không mở lời, cứ làm tốt chuyện được giao. Những chuyện khác mình nhìn thấy thì cứ nhớ trong lòng là được.

Lục Dĩ Phương biết tính nàng ta, cũng không vòng vo.

“Đưa người về rồi sao?”

“Đưa về rồi ạ.”

Người bưng nước mãi chưa thấy về, nhớ tới chắc là vì phòng nước đang bận lo cho Tống Giản, Tân Nô bước đến bên bàn trà, rót một chén trà nhỏ dâng cho Lục Dĩ Phương.

“Phu nhân, trà đây ạ.”

Lục Dĩ Phương đưa tay nhận lấy, đặt trên đầu gối.

Ánh trăng bên ngoài cửa sổ trong vắt, bầu trời đã bị tuyết gột rửa cả ngày dài, đến đêm thưa thớt lại lộ ra vài ngôi sao lạnh lẽo. Lục Dĩ Phương chống khuỷu tay lên bệ cửa sổ, ngẩng đầu nhìn ánh trăng mát mẻ xuyên thấu qua kẽ hở của tàng cây.

“Hiện giờ người thế nào rồi? Gia sắp xếp cho nàng ta thế nào?”

Tân Nô ngồi thẳng dậy, vừa dời ngọn đèn bên khuôn thêu đi vừa nói: “Sợ là hôm nay phu nhân làm điều thừa rồi. Nô tỳ thấy dáng vẻ của gia, hẳn thà rằng cô ta chết đi còn tốt hơn. Hiện giờ chỉ còn lại nửa cái mạng thôi. Gia không cho mời đại phu, cứ ném vào sương phòng tối lửa tắt đèn. Sợ là ngày mai gặp lại chỉ còn là một thi thể thôi.”

Lục Dĩ Phương nói: “Ngươi cứ sai người đi mời đại phu đi, không cần báo với Trương quản sự.”

Tân Nô nhìn nàng ta, do dự một hồi mới mở lời: “Làm vậy cũng đâu có ý nghĩa gì. Gia và phu nhân khó khăn lắm mới có những ngày yên ổn, tội gì phải làm khổ mình, để cô ta vạch vết sẹo của gia ra? Nô tỳ thấy, thà cô ta chết đi, mọi người càng thoải mái.”

Lục Dĩ Phương lắc đầu. “Trận chiến sông Bạch Hà, gia chỉ còn kém một bước, nhưng thứ gia không vượt qua được chính là cô ta. Ngươi đấy, bụng dạ vẫn còn thật thà quá. Giữa Tống gia và Đại Tề chỉ có ân oán, nhưng giữa gia và Lâm Xuyên nào đâu chỉ có ân oán thôi.”

Tân Nô luôn bội phục thủ đoạn và tầm nhìn của nàng ta, nghe xong liền mở miệng đáp vâng.

Sau đó lại nói: “Lâm Xuyên công chúa… rốt cuộc là người như thế nào?”

Lục Dĩ Phương thu hồi tầm mắt, nhấc tách trà lên uống một ngụm. “Theo ngươi thấy thì sao?”

“Khó nói lắm ạ, rõ ràng là nàng ta rất hạ mình, nhưng mỗi câu nói ra đều giống như đâm vào não gia vậy. Nô tỳ…”

Nàng ta còn chưa dứt lời, tiểu đồng bên ngoài đã hỏi: “Tân Nô tỷ tỷ, phu nhân nghỉ ngơi chưa? Người gác cổng có lời muốn thưa.”

Lục Dĩ Phương gật đầu, Tân Nô liền bước tới bên cửa sổ, tựa vào thanh cửa sổ nói. “Có chuyện gì? Đứng bên đó thưa đi.”

Tiểu đồng vội nói: “Phu nhân, Cố thiếu gia đó lại tới rồi. Bọn tiểu nhân không cản được hắn. Lúc này hắn đã đi tới trước sảnh rồi. Gia đang tắm, tiểu nhân không dám bẩm báo.”

Lục Dĩ Phương day day hai đầu mày, đây cũng là một vấn đề đòi mạng người đây.

“Đi, ra trước sảnh.”

Trước viện đã loạn hết cả lên. Sáu bảy tiểu đồng lăn lộn trên nền tuyết, hoặc ôm đầu, hoặc ấn bụng rên rỉ. Cố Hữu Hối nắm chuôi kiếm đứng bên chậu cây vân tùng. Lá cây vân tùng cũng bị kiếm quét rơi lả tả.

Lục Dĩ Phương buộc lại áo da hồ ly, bước từ phía sau ra. “Cố thiếu gia, ngài cũng xuất thân từ con cháu thế gia, sao lại hành động lỗ mãng như thế?”

Cố Hữu Hối quay đầu, bước nhanh tới gần nàng ta.

“Ta chỉ muốn hỏi Tống Giản một câu thôi, hắn dẫn người về rồi, giờ sống hay chết?”

Lục Dĩ Phương không hề lui bước. “Nàng ta đã nhập hộ tịch Tống phủ, chính là nô tì của Tống phủ bọn ta. Đây là chuyện trong nhà ta, không cho phép ngài càn rõ tới hỏi.”

Cố Hữu Hối cười lạnh một tiếng: “Hỏi cũng không được à?”

Nói rồi, hắn rút kiếm bên hông ra, đặt thẳng lên cổ họng Lục Dĩ Phương, khóe miệng nâng nên nụ cười nhạt. “Tống phu nhân, ta bỏ dinh phủ Cố gia đi, chỉ là một tên du thủ du thực trên giang hồ, không có dáng vẻ và khí chất như Tống Giản. Cô nói ta không được hỏi, vậy ta sẽ dùng kiếm trên tay để hỏi vậy.”

Tân Nô hét lên: “Các người còn đứng đó làm gì? Bắt lấy hắn đi.”

Lục Dĩ Phương giơ tay lên nói: “Không cần đâu Tân Nô. Mời Cố thiếu gia vào trong. Ngươi vào bưng trà đi. Chuyện của Lâm Xuyên công chúa ta sẽ từ từ nói với Cố thiếu gia.”

Cố Hữu Hối là người ít trải đời, thật sự không đối phó được với loại người đã được tu luyện như Lưu Dĩ Phương. Lời nàng ta nhỏ nhẹ, kiếm của Cố Hữu Hối cũng bất giác yếu thế đi. Trong lòng hắn vốn sợ Tống Giản nhẫn tâm, thật sự giết chết cô công chúa xúi quẩy nọ, vậy thì tự mình phải rạch một kiếm lên cổ rồi. Nay thấy thái độ của vị Lục phu nhân này, nghĩ chắc hẳn không cần lo lắng cho tính mạng Kỷ Khương.

Hắn ngượng ngùng rút kiếm về.

Mấy tiểu đồng trên mặt đất cũng lồm cồm bò dậy, lăn lộn bò lùi ra phía sau.

Lục Dĩ Phương tự tay pha một ấm trà Thái Bình Hầu Khôi. Đêm rất lạnh, khói trà sôi mờ mịt bốc lên, rót thẳng vào mũi hắn. Loại cảm giác tê dại như canh đường này khiến cả người hệt như bị dây thừng trói chặt. Lục Dĩ Phương ngồi ngay ngắn, tay bưng khay trà, đầu ngón tay cũng đỏ lên nhưng nàng ta dường như không hề bị tác động.

Cố Hữu Hối cố chấp không chịu nhận lấy. “Làm trò trước mặt bổn thiếu gia cũng vô dụng thôi. Bổn thiếu gia muốn gặp nàng ấy.”

Lục Dĩ Phương lại nâng tay cao hơn. “Cố thiếu gia uống một ngụm trà đã. Uống xong hãy gặp cũng không muộn.”

Đây là lưỡi dao dịu dàng của nữ nhân, kiếm của Cố Hữu Hối thật sự không cản được. Chẳng phải hắn thương hoa tiếc ngọc, chỉ vì cảm thấy cực kỳ không thoải mái.

“Được, được. Ta uống.”

Nói rồi hắn đón lấy, một hớp rót vào cổ họng. Sau khi nuốt xuống, bị nóng tới nhe răng trợn mắt.

Lục Dĩ Phương che miệng cười cười. Nàng ta bước đến ghế bành, ngồi xuống.

“Ta có một câu muốn hỏi Cố thiếu gia, ngài để ý con người cô ta, hay chỉ để ý mạng của cô ta?”

Cố Hữu Hối bị hỏi câu này, gương mặt bất giác lúc đỏ lúc trắng, lúc lam lúc lục, ngũ quang đủ màu, trông rất đẹp mắt.

“Ta… đương nhiên ta chỉ để ý mạng nàng ấy thôi.”

Hắn ưỡn cổ nói, quai hàm cũng siết chặt.

Lục Dĩ Phương chăm chú nhìn dáng vẻ của hắn, nhàn nhạt ồ một tiếng.

Tiếp đó nàng ta đứng dậy, đi đến trước mặt hắn. Cố Hữu hối bất giác lùi về sau mấy bước.

“Cô đừng tới gần như vậy.”

“Cố thiếu gia sợ điều gì?”

“Ta…”

“Cố thiếu gia, nếu ngài chỉ để ý tính mạng cô ta thôi, vậy thì mời ngài về đi. Lục Dĩ Phương ta lấy mạng ra bảo đảm cho cô ta, gia của ta sẽ không để cô ta chết như vậy đâu.”

Tới khổ với ông Hối. Nhưng cũng phải thôi, anh ngây thơ vậy làm sao là đối thủ của người thủ đoạn tâm cơ như Lục Dĩ Phương?

Thứ Dân – Chương 9

Tha Dữ Đăng

Dịch: Tịch Dương Mùa Hạ

thu-dan-chuong-9

“Ta tự vấn lương tâm, ta có lỗi với chàng. Ta không để ý chàng nhục nhã ta, giày vò ta thế nào. Chàng muốn làm chủ tớ với ta, vậy thì ta làm nô tì cho chàng.”

CHƯƠNG 9: KHỞI TÂM

Tống Giản và chưởng quầy vẫn đứng trong tuyết, nói từ chuyện sản xuất mao thạch tới chuyện thủy văn địa lý, thậm chí nói tới vị lão gia nào đó chơi đoán phỉ thúy, một khắc trước còn giàu sang, một khắc sau liền bần cùng, phải bán hết địa sản, cuối cùng lưu lạc đến mức bán mình làm nô, không còn ai biết đến. Sau cùng họ lại nói đến chuyện huyết văn của đợt hàng Xương Hoa này tốt hay xấu.

Tống Giản cầm ô, nương theo chiều cao của chưởng quầy mà hơi khom eo xuống. Đứng khá lâu rồi mà y cũng không cảm thấy mệt. Khuôn mặt ấm áp rõ ràng giãn ra trong tuyết, quần áo mặc thường ngày lại càng tôn thêm góc độ dịu dàng. Chuỗi ngọc trầm hương trên tay đôi khi chạm vào cán ô khe khẽ.

Kỷ Khương vừa chịu trượng hình, lại trải qua một phen lôi kéo, miệng vết thương mở ra, lại ma sát với làn váy, mỗi khắc đều là dày vò. Nàng không đứng vững, trước mặt cứ mơ hồ từng đợt ánh sáng trắng rồi lại xám, nhưng nàng lại không chịu để lộ dáng vẻ thảm hại của mình.

Tiểu đồng đứng bên cạnh Tân Nô nhìn thấy tình hình này liền kề tai Tân Nô nói: “Hay lên xin gia một tiếng, trời cũng sắp tối rồi.”

Tân Nô đứng yên ổn bên nhuyễn kiệu. “Gia đang có hứng, các ngươi cũng xứng đi giục sao?”

Nói rồi, nàng ta giơ cánh tay đang đỡ Kỷ Khương lên, cúi đầu bình đạm nói với Kỷ Khương: “Đứng cho đàng hoàng đi, gia chúng ta có quy định, nữ tử trong phủ ra vào cũng phải có dáng vẻ đứng đắn. Nghe nói cô từ trong cung ra, đừng khiến ta coi thường cô.”

Nữ tử trong phủ?

Cảm xúc của Kỷ Khương tuy rằng đã bị nỗi đau đớn trên người khuấy đảo đến mơ hồ, nhưng vẫn ngầm nghe được ẩn ý trong câu này của Tân Nô.

“Tống Giản… muốn đưa ta đi đâu?”

Tân Nô ngẩng đầu lên. “Gia chúng ta nảy sinh lòng từ bi, bổ sung hộ tịch của cô vào phủ, nhưng mà là nô tịch. Dạo này trong phủ vừa tống đi hai ba người hầu làm việc nặng, vừa khéo bổ sung cô vào.”

Nói rồi cô ta hơi ngừng lại, lên giọng nói: “Ta là Tân Nô, nô tì trong phủ đều do ta quản lý. Ta nghe nói, trước đây cô là công chúa Đại Tề, tới chỗ của ta rồi thì không có gì khác với các nô tì khác trong phủ. Mấy lời sau đây ta chỉ dạy cô một lần thôi. Lần thứ hai, ta sẽ dùng quy củ trong phủ để dạy dỗ cô. Nghe cho kỹ. Tên húy của gia cao quý, phận làm nô thì không được gọi thẳng.”

Làm nô ư?

Kỷ Khương yên lặng nghe Tân Nô nói xong, lại nhìn về hướng Tống Giản đang đứng trong tuyết, cách đó không xa.

Y vẫn cúi người che ô cùng chưởng quầy, tựa như vừa nói tới điều rất thú vị, khí chất con người cũng lạnh lẽo, khóc thì khóc cười thì cười, chẳng còn mảy may nhìn thấy làn sương máu lúc tiễn biệt trên quan đạo năm đó. Nhưng mà, cho dù y kiềm chế đến mức nào thì nỗi hận cũng không thể nào che giấu được.

Kỷ Khương nhớ ra, nàng tới là để giao mình cho y. Nếu đã là giao phó, vậy thì sẽ có quan hệ lệ thuộc. Nhưng đây cũng là thứ dày vò con tim nàng nhất. Trước đây nàng là công chúa, cho dù xuất giá thì trong quan hệ giữa nàng và Tống Giản, trước là quân thần, sau đó mới là phu thê. Đại Tề là chỗ dựa hung hăng kiêu ngạo phía sau nàng. Thế nhân đều biết tới Lâm Xuyên công chúa trước, sau đó mới bàn tới Tống Giản.

Tống Giản sống ẩn nhẫn trong hào quang lóa mắt của Kỷ Khương nhiều năm. Nàng biết y có tài quân sự, nhưng nàng lại quá coi trọng nhu cầu của bản thân mình. Trước giờ chưa từng nghĩ đến, Tống Giản vốn là vật làm nền trong cuộc đời nàng cũng cần phải có một cuộc đời phong quang rực rỡ, vượt trội hơn người.

Quá nhiều phụ lòng không sao kể xiết.

Lúc này trời đã tối hẳn, gió tuyết vẫn chẳng ngừng. Trước Linh Lung trai, cuối cùng Tống Giản cũng cáo từ chưởng quầy. Y xoay người, đầu gối gặp lạnh đau đớn như kim châm xuyên cốt. Tân Nô bảo hai thị nữ giữ lấy Kỷ Khương, buông tay chỉnh lại y sam, tự mình bước lên trước, khụyu hối hành lễ, sau đó vươn tay nhận lấy chiếc ô trong tay Tống Giản.

“Gia, phu nhân đã mời đại phu, đang đợi trong phủ.”

Tống Giản ngừng lại, nhắm mắt thở ra một hơi, nỗi đau đớn trên đầu gối vẫn không thuyên giảm chút nào, nhưng y không chịu để lộ ra.

Tân Nô nhận ra được, nhưng lại không dám hỏi, càng không dám dìu y. Dù sao nàng ta cũng là nữ tử do Lục Dĩ Phương tự mình dạy dỗ, biết đâu là chỗ kiêng kị của Tống Giản.

“Nàng ấy tự quyết định, ta có nói là phải chữa thương cho cô ta sao?

Tân Nô cúi đầu xuống: “Ý phu nhân là, gia đã để cô ta từ van dặm tới, hẳn sẽ không muốn nhận được một thi thể trước cổng nha môn. Người như cô ta không xứng để Tống phủ chúng ta tốn chiếu bọc thây đâu.”

Nàng ta dùng những lời nhục nhã khó nghe nhất để nói, vốn là muốn biện minh cho hành động của Lục Dĩ Phương, nhưng Tống Giản nghe xong cũng không thấy dễ chịu chút nào.

Y nghiêng mặt, nhìn thoáng qua Kỷ Khương.

Nàng vừa chịu hình xong, tóc tai rối loạn, làn môi cũng bị cắn nát lúc nén đau, rướm máu tươi. Kỷ Khương sau khi cởi bỏ chiếc cửu địch quan, trút đi bộ y phục hoa lệ thêu mẫu đơn vàng, nhận hết mọi tra tấn lại giống như cánh hoa sen bị người thô bạo giẫm nát. Trong nhất thời, y thoáng không nhận ra nàng.

“Gia!”

Tống Giản ngẩn ra. Tiếng gọi “gia” này là từ miệng Kỷ Khương phát ra.

“Kỷ Khương có lời muốn nói với ngài.”

Tống Giản nghiêng người đi về hướng xa liễn(1). Một tiểu đồng vội kê ghế giúp y. Tống Giản đỡ lấy càng xe, xoay người nói với Kỷ Khương. “Lâm Xuyên, nay cô đã là người trong phủ ta, sau này thời gian còn dài, có gì muốn nói cũng đừng nhất thời nôn nóng.”

Y còn gọi nàng là Lâm Xuyên. Cũng đúng, Kỷ Khương là tên húy, cho dù là phò mã cũng không thể gọi thẳng ra. Thế nên trước giờ trong phủ, trước mặt và sau lưng người khác, Tống Giản đều quen gọi nàng là Lâm Xuyên. Dần dần, cách gọi này cũng có mấy phần ý nghĩa thân mật giữa phu thê với nhau.

“Tống Giản, ta chỉ có một câu thôi.”

Tân Nô nhíu nhíu mày. Nàng ta ngẩng đầu lên, nói với một thị nữ bên cạnh nàng: “Vả miệng cô ta!”

Kỷ Khương không kịp lên tiếng, mặt bên trái đã lãnh một cái tát thô bạo.

Cơ thể nàng nghiêng ngả, cánh tay được người khác dìu mới không đến mức ngã xuống.

Tân Nô bước đến trước mặt nàng. “Ta đã nói với cô rồi, ta chỉ nói một lần thôi. Cô đã không nhớ rõ thì phải bị quy củ trong phủ dạy dỗ.”

Đôi mắt Kỷ Khương đỏ hồng, trên mặt cũng ửng lên dấu vết màu đỏ. Nàng cố hết sức nén nước mắt lại, chậm rãi đứng dậy nói với Tống Giản.

“Gia, ngày mai là lập xuân rồi.”

“Ta biết.”

Kỷ Khương nuốt cảm giác tanh ngọt trong cổ họng xuống. “Ta đã tới kịp, vậy mong là gia đừng quên ước định lui binh bên sông Bạch Thủy.”

Tống Giản cười một tiếng. “Hay là ta và cô lại giao một ước định nữa đi.”

Nói rồi y ngẩng đầu. Bầu trời u ám trên đỉnh đầu vẫn còn đang đổ tuyết rào rào.

“Chỉ cần ngày nào cô còn làm nô trong phủ ta, ngày đó ta sẽ là thần tử Đại Tề của cô.”

Giọng y không lớn, nhẹ như mây gió, không để lộ chút cảm xúc nào.

Nhưng câu này y đã luyện trong đầu mình ngàn vạn lần. Mỗi giọng điệu trong câu chữ đều dùng hết tâm ý.

“Được, ta đồng ý với chàng.”

Tống Giản cúi đầu nhìn nàng. Toàn thân nàng run rẩy trong tuyết. Trên bờ môi thâm đen còn để lại dấu răng nhìn ghê người, nhưng ánh mắt nàng lại không có một tia lùi bước nào. Ánh mắt như thế, Tống Giản đã quá quen thuộc.

“Ôi, Lâm Xuyên, cô ngu xuẩn thật đấy.”

Chẳng qua y chỉ muốn để nàng nhìn xem, hoàng thất Đại Tề mà năm ấy nàng không tiếc tận diệt cả nhà mình cũng phải bảo toàn, hôm nay vứt bỏ nàng như rơm rác thế nào. Không ngờ, vậy mà nàng lại đồng ý dễ dàng đến thế, tựa như đã sớm đoán được lòng y.

Đây không phải ván cờ chính trị, khiến Tống Giản thắng cũng không vẻ vang lắm.

“Ngu xuẩn thì ngu xuẩn thôi. Ta tự vấn lương tâm, ta có lỗi với chàng. Ta không để ý chàng nhục nhã ta, giày vò ta thế nào. Chàng muốn làm chủ tớ với ta, vậy thì ta làm nô tì cho chàng. Chỉ cần chàng thật sự tôn trọng ước định mà chàng nói là được.”

Nói rồi nàng lại giơ tay, chỉ vào chính mình. “Một ngày ta làm nô, một ngày chàng làm thần.”

Vốn y còn định giữ tâm trạng bình tĩnh, lại bị lời nàng nói làm dấy lên muôn ngàn sóng dữ. Tay tựa vào càng xe cũng đột nhiên siết chặt.

“Đối với cô mà nói, Đại Tề quan trọng như vậy sao?”.

Nàng cũng ngẩng đầu lên, chiếc cổ thanh nhã lộ ra trong gió tuyết lạnh lẽo, trông như một khúc ngó sen trắng nõn. Ba nghìn thế giới, mọi cõi sa bà(2) hỗn độn khơi dậy động niệm, đều cuồn cuộn dấy lên trên cơ thể nữ tử vừa xa cách vừa thân thuộc này. Thế mà những lời thốt ra từ cánh môi thâm tím của nàng lại giống như ma quỷ, bắt lấy toàn bộ cảm xúc của Tống Giản.

“Chuyện này rất quan trọng với gia sao?”

Đùi Tống Giản truyền tới cơn đau đớn như đâm thủng màng não. Thân mình y lảo đảo, suýt nữa còn không đứng vững.

Tân Nô vội nói: “Gia, về thôi. Phu nhân lo lắng cho ngài, đã bảo người tới hỏi mấy lần rồi.”

 (1) Xa liễn: Một loại xe thời xưa.

(2)Tam thiên thế giới: Tiếng nhà Phật, chỉ hàng hà sa số thế giới trên cõi đời. Gồm Tiểu thiên thế giới, Trung thiên thế giới và Đại thiên thế giới.

Cõi Sa bà: Chỉ thế giới Sa bà (Phạm:Sahàlokadhàtu), tức là thế giới hiện thực do đức Phật Thích ca mâu ni giáo hóa. Chúng sinh trong thế giới này làm 10 điều ác, chịu đựng các phiền não mà không muốn lìa bỏ, vì thế gọi là Nhẫn. 

Sa bà trở thành 1 thế giới Tam thiên đại thiên do đức Phật Thích ca mâu ni giáo hóa.

Vì càng về sau thì chương sẽ dài hơn nên từ chương này quay lại 2 chương mỗi tuần nhé, vào thứ 3 và thứ 7.

Thứ dân | Chương 8

THA DỮ ĐĂNG

Dịch: Tịch Dương Mùa Hạ

Nàng không chống chọi được, nhưng tuyệt đối không cam chịu trầm luân.”

CHƯƠNG 8: DIỄM TỘI

Từng cơn đau bất ngờ giáng xuống mông, kéo Kỷ Khương ra khỏi hồi ức, trở về với trận tuyết trước nha môn Thanh Châu mà không chút chuẩn bị nào.

Trước mắt nàng lóe lên từng luồng ánh sáng vàng chóe chói chang, cổ họng cũng trở nên mất khống chế, phát ra một tiếng: “A!”. Âm thanh này chớp mắt châm ngòi cho những người kéo đến xem náo nhiệt xung quanh. Thậm chí có người vỗ tay khen hay.

Lòng người hỗn độn hoàn toàn lộ ra rõ ràng nên nền tuyết. Không ai cảm thông cho nàng, cũng căn bản không có ai để ý xem nàng có tội hay không. Sự náo nhiệt hương diễm che lấp đi mọi xúc giác của bọn họ. Điều này khác xa với bầu không khí trang nghiêm vắng lặng trong Văn Hoa điện năm đó, lại có cùng nỗi bi thương tương đồng.

Nha dịch đếm số cất cao giọng hô: “Một”. Sống lưng cứng đờ của nàng còn chưa kịp thả lỏng, trượng thứ hai liền giáng xuống. Kỷ Khương siết chặt dây trói cổ tay, nhưng vẫn không thể hoàn toàn nuốt tiếng rên vào cổ họng. Trong miệng nàng bật ra âm thanh yếu ớt nhưng lại chói tai, rót thẳng vào màng nhĩ mọi người, khiến những xấu xa phàm tục bất trị của con người lại hưng phấn trỗi dậy.

“Ấy ấy, ngừng, ngừng lại.”

Một nha dịch xách theo hai thùng nước chạy từ trong phủ ra.

Nha dịch giám sát hành hình quay đầu lại nhìn gã. “Còn phiền phức vậy à?”

Nha dịch đặt thùng nước xuống, cởi cái gáo hồ lô giắt bên hông ra. “Phiền phức gì chứ? Đại nhân nổi lòng từ bi, ngươi còn biết phơi bày cho người ta thấy à? Đánh vào y phục, lại vào ngày đông, không tới hai mươi trượng thì quần họ đã rách bươm cả rồi. Mấy loại vải thô vải nát thế kia, thấm vào vết thương thì sẽ lở loét hết, không bị đánh chết cũng bị đau tới chết thôi. Mau đi.”

Người hành hình chẳng chút tình nguyện buông hình trượng xuống, đi qua múc nước.

Vào ngày đông, hắt nước lên chỗ bị hành hình thật ra không phải vì muốn hành hạ những người này. Dương Khánh Hoài sợ nhất là phiền phức, tốt nhất là đánh cho nhanh lẹ rồi tống họ ra khỏi Thanh Châu. Hắn cũng không muốn mấy người này bị thương đến mức bệnh không đi nổi. Tới lúc đó không chỉ phải nán lại trong ngục trị thương mà còn tốn tiền cho họ ăn uống nữa. Chuyện mua bán thâm hụt như thế hắn cũng chẳng muốn làm.

Kỷ Khương nhờ vào khoảng lặng này mà có thể miễn cưỡng điều chỉnh lại hơi thở của mình. Gã thanh niên nằm sấp bên cạnh nghiêng đầu sang nói với nàng. “Cô nương à, cô kêu cũng phải chịu mà không kêu cũng phải chịu. Mấy người vây xem ngoài kia, trong đầu đều bẩn thỉu, căn bản họ không hiểu cho sự khổ sở của cô. Họ chỉ muốn dùng nỗi đau của cô để khiến bản thân mình vui vẻ thôi. Cô cần phải… cố nhịn thôi.”

Đây có thể xem là những lời thương cảm nàng tận đáy lòng. Kỷ Khương nghiêm túc tiếp thu.

Khác hẳn với nơi nàng sống, thế tục là nơi phô bày mọi thứ ánh sáng cả đẹp đẽ lẫn dung tục. Phần lớn mọi người đều chưa từng được thánh nhân dạy dỗ, cải gạo dầu muối là đủ lấp đầy dạ dày. Có nôn ra thì chắc chắn cũng chỉ có hơi của ngũ cốc, cháo vụn, mọi hương vị tao nhã đều sẽ bị chôn vùi trong đó. Nàng không chống chọi được, nhưng tuyệt đối không cam chịu trầm luân.

Một gáo nước lạnh băng đột ngột tưới xuống.

Trời quả thật rất lạnh, Kỷ Khương không nén được mà giật mình một cái.

Việc hành hình được tiếp tục. Người hành hình chụm trượng trúc thành vòng tròn, không chút thương tình đánh xuống. Nha dịch giám sát hành hình cất cao giọng đếm. “Ba.”

Thân hình Kỷ Khương không nén được mà ngẩng lên, răng cắn chặt, rốt cuộc cũng nuốt được cơn đau xuống, chỉ câm lặng rên rỉ một tiếng trong mũi.

Nhưng đây mới chỉ là trượng thứ ba mà thôi. Nàng có thể dễ dàng nhận ra uy lực của công cụ hành hình này.

Sau hai mươi trượng, da thịt đều rách nát, máu đỏ tươi thấm ra từ trong tiết khố, mỗi trượng đánh xuống lại thêm chồng chất. Kỷ Khương cảm thấy răng mình đã cắn đến sắp vỡ rồi. Nhưng quả thật nàng đau quá, đừng nói kim chi ngọc diệp như nàng, cho dù là mấy nam nhân bên cạnh cũng lần lượt buông bỏ mặt mũi, hét lên thảm thương.

Chỉ trong chốc lát, trước phủ nha Thanh Châu đã giống như địa ngục chốn trần gian.

Cho nên rốt cuộc tám mươi trượng trong Văn Hoa điện đau đến mức nào, Kỷ Khương không tưởng tượng nổi. Kỷ Khương nghĩ sau khi gặp Tống Giản, nếu y không ra tay giết nàng, nàng thật sự rất muốn hỏi y thử.

Quy luật tự chuộc tội của con người thật sự rất đơn giản. Sau khi lấy một trả một thì sẽ cảm thấy giữa hai người đã có đủ tư cách chọc vào nỗi đau của nhau.

Cuối cùng cũng đánh xong bốn mươi trượng. Người hành hình cũng nhẹ nhàng thở ra, thu gậy lại, sau đó bước sang một bên nghỉ ngơi.

Những người nằm trên ghế hành hình không ai đứng dậy nổi. Máu và nước lạnh hắt lên người dần dần kết thành băng sương. Hơi thở ra từ cổ họng người bị hành hình lại mang theo cảm giác nóng bỏng như bị thiêu đốt. Từng hồi từng hồi trước mặt Kỷ Khương đều hóa thành màu đen, âm thanh người bên tai cũng mơ hồ.

“Đánh xong rồi, tiếp theo đại nhân có ý gì không?”

Nha dịch giám sát hành hình sờ sờ mũi, đảo mắt nhìn tình trạng thê thảm xung quanh. “Còn sao nữa, lôi vào nhà lao nuôi thôi. Nhưng ai đi lại được thì đuổi khỏi Thanh Châu đi. Tình hình bây giờ thế nào chứ? Sông Bạch Thủy vẫn còn đánh đấy. Sao đại nhân có thể để bọn họ lang thang trong Thanh Châu chứ. Hừ.”

Hắn giơ tay chỉ chỉ vào Kỷ Khương đang nằm trên ghế hành hình. “Đặc biệt là nữ tử này. Đuổi đi mau đi. Vừa nghe cô ta phát âm tiếng Phổ thông là biết từ Đế Kinh tới rồi. Không chừng là gian tế đấy.”

“Vâng.”

Nha dịch định kéo người đi, lại nhìn thấy tiểu đồng thân cận của Dương Khánh Hoài chạy tới.

“Này, các quan gia đợi đã, đại nhân có dặn dò khác.”

Nha sai giám sát hành hình vội hỏi: “Dặn dò gì?”

Tiểu đồng này chạy tới nỗi không kịp thở. “Tống phủ tới đòi người. Những người khác quan gia cứ tống đi. Nhưng cô nương này thì phải đưa đến Tống phủ.”

Gã giám sát hành hình ngây ra: “Tống phủ? Tống phủ nào cơ?”

Tiểu đồng hơi nín thở: “Quan gia à, Tống phủ có giao tình với đại nhân chúng ta thì còn có thể là Tống phủ nào nữa chứ? Chẳng phải chính là vị tiên sinh của vương gia đó sao?”

Miệng gã nha dịch hành hình co rút lại, vốn chỉ nghĩ nàng ta là nữ tử bán nghệ bôn tẩu trên giang hồ, không chút nể tình mà đánh nàng ta bốn mươi trượng thật, lại không biết nàng ta lại có quan hệ với Tống Giản. Nghĩ tới bèn không khỏi chột dạ bước xuống, tới bên cạnh Kỷ Khương quan sát tỉ mỉ, chỉ sợ là đánh quá tay rồi.

“Chuyện này… sao không nói sớm chứ? Nếu nói sớm thì đã không…”

Tiểu đồng nói: “Quan gia yên tâm đi, đại nhân chúng ta nghe tin cũng nói y như vậy, nhưng người bên ấy nói đại nhân xử sự công bằng, không có gì đáng trách.”

Bấy giờ nha dịch này mới nhẹ nhàng thở ra. “Vậy còn không mau giải tán mấy người kia đi, rồi đưa cô ta tới chỗ Tống tiên sinh.”

Mấy người tới xem náo nhiệt sao lại dễ giải tán vậy. Vừa nghe thấy Tống phủ tới đòi người, não ai nấy cũng đều nhạy bén như mấy người kể chuyện, soạn ra biết bao màn kịch hay, tiếp đó lại kéo nhau đi theo nha dịch đỡ Kỷ Khương ra đầu phố.

Chân Kỷ Khương căn bản không có sức, hầu như bị người ta kéo lê về phía trước. Cũng không biết có phải vì vết thương đau quá không, trong tuyết lớn, nàng lại không thấy lạnh chút nào. Bố cục thành Thanh Châu được mô phỏng theo Đế Kinh, bốn bề ngay thẳng, hai con đường chính trong thành giao nhau tạo thành đông tây nam bắc. Vương phủ ở hướng Bắc, còn nhà Tống Giản ở phía Tây Vương phủ. Dọc đường đi theo đường chính là từ Nam ra Bắc, bên đường san sát các cửa hàng. Cũng vì cuối năm, ngoại trừ những người tới góp vui, người bán hàng thì nô bộc các phủ tới mua thức ăn cũng chen chúc đầy con phố. Người tới người đi, vô cùng náo nhiệt.

Cung đình là nơi cơ mật mà phố chợ bên ngoài không được quyền biết tới. Kỷ Khương lại là nàng khổng tước lông vàng được nuôi dưỡng trong đó, nhưng y lại bắt nàng phải lộ diện ra ngoài.

Nhưng mà, dù là Tống Giản hay Kỷ Khương đều chưa từng cảm giác được, cả hai người đều không ngừng giày vò đối phương, sau đó trên con đường nhân sinh dài đằng đẵng này, trừ khi tử biệt, bằng không nhất định sẽ phải dung hợp trong đau đớn đong đầy.

—Tịch Dương Mùa Hạ—

Người Tống phủ đã đứng ở đầu đường đợi nàng. Đứng đầu là một thị nữ tên Tân Nô. Nàng ta mặc một chiếc áo ngắn cổ chéo có hoa văn triền chi(1), phía dưới là chiếc váy mã diện(2) bằng tơ Thanh La, bên ngoài khoác một chiếc áo bội tử(3) phủ lông, yên lặng đứng trước nhuyễn kiệu. Nàng ta không được coi là xinh đẹp, thậm chí đôi mắt còn hơi sụp xuống, nhưng khí chất và dáng vẻ đưa tay nhấc chân đều khá giống với Lưu Dĩ Phương.

Nàng ta trầm tĩnh bước về phía trước, đón lấy thân mình lung lay sắp đổ của Kỷ Khương từ tay nha dịch, sau đó liếc mắt ra hiệu, hai tiểu đồng phía sau liền dâng một mâm bạc vụn lên.

“Đây là gia chúng tôi mời các vị quan gia uống rượu, các vị quan gia vất vả rồi.”

Bọn nha dịch vội chắp tay nói cảm tạ, biết trước giờ Tống phủ đều rất trọng thể diện, liền phất tay giải tán mấy người tới xem náo nhiệt xung quanh.

Ý thức của Kỷ Khương đã mù mờ, chỉ mơ màng nghe thấy cô gái nọ sai người đi mời đại phu.

Mắt nàng quả thật nặng trĩu, cổ họng liên tục dâng lên cảm giác tanh ngọt. Trong phảng phất lại ngửi được mùi trầm hương vô cùng quen thuộc. Đó là mùi của chuỗi ngọc trầm hương kỳ nam mà trước đây nàng tặng cho Tống Giản. Suốt một năm đó, đại nội chỉ dâng được một đợt nguyên liệu phong phú bóng bẩy như vậy. Nàng cảm thấy rất hợp với Tống Giản liền cố nài tiên đế ban cho nàng. Phải mài hết một trăm linh tám viên ngọc trầm hương mới tạo thành.

“Ôi, Tống tiên sinh đích thân đến à? Không phải đã hẹn rồi sao, ta sẽ gửi mao thạch tới phủ cho ngài mà?”

Cổ họng Kỷ Khương căng thẳng, gian nan ngẩng đầu lên.

Nam tử trước mặt đang từ trên xa liễn bước xuống, trực xuyết màu trắng xanh, khoác áo lông chồn xám.

Y hoàn toàn không nhìn Kỷ Khương.

Hơn ba năm, Tống Giản vẫn mang dáng vẻ năm đó, thậm chí sự tàn ác giữa hàng mày trong lao ngục đã dần ẩn giấu theo thời gian. Y là một nam nhân rất đẹp. Thời trẻ đi ngao du khắp nơi, sau đạt được công danh, lại từng làm quan địa phương, con người y đã không còn khí chất văn nhược vốn có của con cháu sĩ tộc nữa.

“Nghe nói, đợt hàng mão thạch này và kê huyết thạch Xương Hoa ngài gửi tới lúc đầu là cùng đợt hàng.”

Chưởng quầy Linh Lung trai biết hắn có tật ở chân, không đứng lâu được, vội muốn đưa hắn tới trước cửa hiệu.

“Vâng, vâng. Đợt hàng đó trước lúc chớm đông đã gửi đến phủ ngài rồi. Chẳng phải ngài không chấm sao? Sau đó tiểu nhân còn đến Xương Hoa một chuyến, khó khăn lắm mới có đợt hàng này bán cho ngài. Đơn hàng lớn lần này gửi tới ngài còn có hai viên, tiểu nhân đã xem xong rồi, khắc thêm huyết văn trang trí thì hợp lắm.”

Tống Giản không có ý đi vào. Y đứng cách Kỷ Khương không gần cũng không xa. Bọn người Tân Nô đều biết quan hệ giữa hai người, cũng không rõ lắm lần này Tống Giản tới là có dụng ý gì.

Là muốn đến nhìn xem tình trạng thảm hại của Kỷ Khương ư? Nếu phải, chẳng phải nên dặm thêm vài lời nhục nhã ư? Nhưng từ đầu tới cuối y đều không nhìn sang bên này, cứ ôn hòa ung dung mà chuyện trò với chưởng quầy Lung Linh trai.

Kỷ Khương nhìn y, nhưng cũng không nói gì cả.

Duy chỉ có trận tuyết lớn, lạnh lẽo mà duy mỹ ngăn cách giữa hai người.

— 

(1)Triền Chi: Một loại hoa văn trang trí truyền thống của Trung Quốc, thường được nhìn thấy trên gốm sứ.

trien-chi-thu-dan

Một hoa văn triền chi.

(2)Váy Mã Diện: Là kiểu váy phổ biến nhất của Trung Quốc thời cổ, trước sau trong ngoài tổng cộng có bốn lớp, hai mảnh chồng lên nhau. Bên ngoài có trang trí. Váy Mã Diện thịnh hành nhất vào thời Minh, Thanh, kéo dài đến tận thời Dân quốc đã có nhiều biến đổi, nhưng vẫn giữ được kết cấu đặc biệt của nó.

vay-ma-dien-thu-dan

Chân váy mã diện

(3)Bội tử: Còn gọi là bối tử, xước tử, tú quật, là một kiểu trang trí y phục truyền thống của Hán phục. Là một loại trang phục mà phụ nữ, con gái thời Tống Minh thường dùng. Kiểu dáng là cổ áo vuông góc với vạt áo. Dưới nách tay áo bắt đầu mở rộng ra, bên hông thì dùng dây tơ lụa để buộc lại, phía dưới thì dài quá gối. Thường thì tay áo và cổ áo được viền hoa.

boi-tu-thu-dan

Áo khoác bên ngoài là bối tử.

 

Giận chị tác giả ghê, sao mô tả bộ đồ cho chị tì nữ còn kỹ hơn cả dàn nữ chính nữ phụ là sao à 😥

Thứ Dân | Chương 7

THA DỮ ĐĂNG

Dịch: Tịch Dương Mùa Hạ

“Sau bốn mươi trượng, tận mắt thấy Tống Tử Minh chết thảm, y liền sụp đổ mà khóc thất thanh. Mấy trượng sau cùng ấy… cổ họng nghẹn ngào, chỉ có thể phát ra mấy tiếng cực kỳ oán hận từ trong phế quản. Là phản bội, cũng là vứt bỏ.”

CHƯƠNG 7: TRƯỢNG HÌNH

Bên ngoài, Cố Hữu Hối xách cổ Trương quản gia, đặt lên đầu đá sư tử trước cổng. Trương quản gia rất thấp bé, bị Cố Hữu Hối xách như vậy thì chân không chạm được xuống đất, tay bất lực mà cào loạn giữa không trung. Dáng vẻ vô cùng nhếch nhác.

Những tiểu đồng khác thấy hắn ngạo mạn tới vậy, không ai dám cản lại, đành phải vây quanh hai người. Đang lúc giằng co, cánh cổng kẽo kẹt một tiếng rồi bị đẩy ra. Mọi người quay đầu lại. Trận tuyết lớn cuốn hút ánh mắt người khác, hắt lên cánh cổng màu đỏ thẫm tựa như những mảng ngọc. Tống Giản đứng trước cổng, vạt áo trực xuyết(1) màu trắng xanh len qua cánh cổng mà hòa mình trong gió tuyết.

Đã hai năm Cố Hữu Hối không gặp Tống Giản. Trước đây bọn họ đều sinh ra trong tầng lớp sĩ phu. Phụ thân lại là những nhà nho lớn trong giới văn hào, là lãnh tụ tinh thần của các sĩ tử Đại Tề trong thời đại này. Quen biết từ thuở thiếu thời, từng có biết bao lần đối ẩm tâm tình giữa đêm khuya, nhìn thấy chí hướng xuất sĩ báo quốc trong mắt đối phương. Nhưng chẳng ai ngờ, sau đó một người lên núi làm kẻ tu hành lêu lỏng, một người gặp họa diệt môn, phải đứng lên cầm đao hướng về kẻ mình từng xem là chủ tử. Dù là ai trong bọn họ cũng không thể mở miệng thốt ra hai chữ: nhân sinh.

“Tống Giản, Tống đại nhân, biển hiệu này lớn quá nhỉ?”

Cố Hữu Hối bình thản buông tay ra. Trương quản gia dính chặt trên đầu đá sư tử, mông trượt xuống đất, lại cuống quýt giãy giụa đứng dậy, chạy đến bên cạnh Tống Giản.

“Gia, có cần báo quan phủ không?”

“Không cần. Các người quay vào đi.”

Trương quản gia vẫn không yên tâm. “Vậy không được đâu. Bọn tiểu nhân đi theo gia, gã này không có ý tốt đâu.”

Giọng Tống Giản không lớn, nhàn nhạt lặp lại hai chữ: “Đi vào!”

Mọi người đều biết tính tình y, thấy sắc mặt y ngầm biến đổi thì không dám nói nữa, căm giận bất bình mà lui về phía sau cánh cổng.

Tống Giản bước vài bước về phía trước, xuống bên dưới thềm đá.

“Huynh tới Thanh Châu tìm ta là vì chuyện gì? Chắc không phải là tới ôn chuyện chứ?”

Y còn chưa nói hết lời, Cố Hữu Hối đã gác kiếm lên bả vai nói, “Tống Giản, muốn ôn chuyện thì đợi đến mai đi. Bây giờ ta hỏi huynh một câu, huynh có muốn mạng cô công chúa gì đó không?”

Tống Giản cười một tiếng khác lạ. Dáng vẻ hắn sốt ruột đến mắt đỏ hồng như thế, hóa ra là vì Kỷ Khương.

“Sao nào? Huynh gặp cô ta rồi ư?”

Cố Hữu Hối bước lên trước một bước. “Nha môn phủ Thanh Châu. Cô ta sắp bị bọn chúng trượng hình rồi.”

—Tịch Dương Mùa Hạ—

Kỷ Khương bị nha sai bắt ngay trước cổng thành Thanh Châu. Lúc đó Cố Hữu Hối đã rút kiếm ra khỏi vỏ rồi, nhưng lại bị nàng ngăn lại. Tuy nàng không hiểu rõ giang hồ là nơi thế nào, cũng không biết nguồn gốc của nhẫn ngọc phù dung và sự cố chấp mà Cố Hữu Hối gọi là “mệnh của cô chính là mệnh của ta” từ đâu ra, nhưng nàng hiểu rõ, một hiệp khách đơn đả độc đấu sẽ không địch nổi mấy mươi thủ vệ giữ thành cầm đầy binh đao.

Nhưng mà chạy trốn thì có thể.

Thế là nàng nhét bọc đồ chứa thánh chỉ trong tay mình cho Cố Hữu Hối. “Mau chạy đi!”

Trong mắt Kỷ Khương, tai ương lao tù bất ngờ này không phải kiếp nạn, mà là báo ứng mà Tống Giản muốn chính tay hoàn trả cho nàng. Vì vậy nàng cũng không cần phải kéo gã liều lĩnh Cố Hữu Hối nhảy vào.

Chế độ hộ tịch Đại Tề từ lâu đã rất nghiêm khắc. Vào thời kỳ Tống Tử Minh đảm nhiệm chức thủ phụ cũng là thời kỳ đỉnh cao. Tạo ra hoàng sách (2), hộ thiếp (3), ra vào châu huyện cần phải có lộ dẫn ra vào của quan phủ, nếu không sẽ bị xem là lưu dân, phạt giam giữ và trượng hình.

Mà trong tình trạng Thanh Châu và Đế Kinh giương cung bạt kiếm như hiện nay, một nữ tử không có hộ thiếp, cũng không thể xuất trình lộ dẫn như nàng đương nhiên rất dễ chọc phải thần kinh của bọn quan phủ nhạy cảm.

Nhưng người của Đông Xưởng đã ra tay ở Trường Sơn, vậy thì phủ Thanh Châu cũng không an toàn. Vì vậy nàng không dám nói thẳng thân phận của mình. Ít nhất là không thể nói trước khi gặp được Tống Giản.

Cho nên chuyện này thực tế là một kế hoạch tàn nhẫn mà lại trót lọt. Y muốn trả cho nàng trận phạt hình năm đó trên Văn Hoa Điện, còn phải tạo cho nàng một tội danh quả thật không thể phản bác, khiến nàng không thể nói được gì, chỉ đành phải cắn răng, ngậm ngùi cho qua.

Tri phủ Thanh Châu Dương Khánh Hoài là người rất lười hỏi chuyện. Lúc này lại gần đến ngày Trừ tịch(4), binh sĩ thủ thành dẫn các lưu dân ra, hắn lười biếng thăng đường, hỏi qua loa mấy câu, phát hiện đều là người nơi khác tới. Có người từ phía nam chạy loạn tới, có người là thương nhân bôn ba làm ăn, còn có những trường hợp vân du bán nghệ kiếm sống, tình cảnh rất phức tạp khiến hắn đau đầu. Bên Tống Ý Nhiên lại cử người tới mời hắn đi ăn lẩu. Dương Khánh Hoài lười xét xử từng trường hợp, đơn giản là cứ phán giống hệt nhau.

“Lôi ra trước cổng nha phủ hết đi, lột y phục đánh bốn mươi bản trước mặt dân chúng. Đánh xong thì đuổi về quê. Dân chạy nạn thì ban ân điển, lão gia nhà nào ưng ý thì cho họ dắt về phủ bổ sung hộ tịch.”

Nha dịch biết lão gia lại muốn đến chỗ mỹ nhân, nói nhiều cũng không tốt. Nhưng vì trong số này lại có Kỷ Khương. Dù sao cũng là nữ tử, đành phải nhiều lời nói thêm một câu. “Lão gia à, trong đó có một nữ tử, bốn mươi bản thì không ổn lắm đâu. E là sẽ lấy mạng người đó.”

Dương Khánh Hoài thích nữ nhân, cũng cực kỳ hiểu nữ nhân. Những nữ tử lưu lạc tha hương kiểu này thường chẳng có kỹ năng gì cả, bị đánh thì gần như không sống nổi. Vừa nghe nha dịch nói có nữ tử, trong lòng liền đoán là mấy cô gái bán nghệ ca hát đánh đàn, liền khơi dậy hứng thú.

“Trông có đẹp không?”

Hỏi vậy thì bảo nha dịch nên nói thế nào đây? Nếu Dương Khánh Hoài thật sự bị nữ tử này làm vướng bận thì Tống Ý Nhiên nhất định sẽ lột da hắn mất.

“Đẹp, đẹp… nhưng so với Tống phu nhân của lão gia thì vẫn… dạ, kém chút xíu. Lão gia, phu nhân đã cử người tới giục rồi đấy.”

Hứng thú của Dương Khánh Hoài đến nhanh, đi cũng nhanh. Dù sao Tống Ý Nhiên cũng là nữ tử hắn mang về từ trong khói lửa, phong tình chói lọi quyến rũ ánh mắt người khác, lại bị cát vàng và máu tươi ươm mầm đến tuyệt không thể tả. Tứ chi mềm mại như rắn, trái tim lại tàn nhẫn như gươm đao, khiến Dương Khánh Hoài muốn ngừng cũng không được. Cũng đúng. Trên đời này làm gì còn có nữ tử nào tuyệt diệu hơn Tống Ý Nhiên chứ?

Thế là hắn đứng dậy, xua xua tay. “Bỏ đi, bỏ đi. Nói với nàng là bây giờ lão gia sang ngay. Còn nữ tử kia, các người không biết nhẹ tay một chút sao? Chết không quan trọng, nhưng phiền phức cho ta lắm.”

Từ cửa sau nha môn, hắn cưỡi ngựa quất roi mà đi.

Trước nha môn đã đông nghịt người vây xem náo nhiệt. Con người đều có lòng hiếu kỳ, nhất là trong thời đại hỗn loạn này. Phàm là bá tánh khá giả mặc được quần áo lăng la(5), ăn mì thịt bằm, trừ khi trong nhà có chuyện đồng áng bận rộn thì đều thích xem chuyện quan phủ giết người hay hành hình trước nha môn.

Người chốn phố chợ, chuyện nhục nhã đều tiết lộ ra ngoài, thậm chí còn có thể mang ra bàn luận. Điều này khác hẳn với bản chất cung đình, thể diện quý tộc tuyệt đối không thể mất trong tay bọn người hầu. Kỷ Khương nhớ, cho dù là Tống Tử Minh năm đó vênh váo thế nào, dám la rầy trước mặt hoàng đế, cũng phải quỳ trước mặt tiên đế, đoan chính dập đầu ba cái. Thỉnh tội xong, đợi sau khi tiên đế tha thứ rồi mới được mở miệng.

Cho dù chỉ là hình thức, thì điều này cũng đại diện cho tôn nghiêm của hoàng gia và quyền lực chí cao vô thượng của hoàng quyền.

Đây cũng chính là thứ mà Tống Giản muốn tước đi từ nàng. Kỷ Khương hiểu rõ điều này, trái lại trong lòng càng thản nhiên.

“Này, ngày mai là lập xuân rồi.”

Một nam tử bán nghệ trên giang hồ đang quỳ chờ hành hình cạnh nàng sâu kín nói. Tất cả mọi người bên cạnh, bao gồm cả Kỷ Khương đều đang run rẩy.

“Phải đấy. Vượt qua trận này, đi đâu dưỡng lại cho khỏe đây?”

Một người khác mặt ủ mày ê ngẩng đầu lên.

Tuyết rất lớn. Trước chỗ họ quỳ là một mảnh trắng xóa mịt mù. Phía sau lại bị đám người xem náo nhiệt giẫm đạp đến mức lầy lội. Kỷ Khương vốn sợ bẩn. Từ bé, ngay cả một hạt bụi nàng cũng không chịu được. Lúc này cũng chỉ có thể dịch chuyển đầu gối đã ma sát đến chết lặng, cố hết sức có thể mà di chuyển về phía trước.

Kỷ Khương là nữ tử duy nhất trong đám người, lại có khí chất vượt trội, y sam đơn bạc phác họa ra dáng người duyên dáng. Hầu như tầm mắt mọi người đều dán vào nàng. Bàn luận xôn xao không kể, thậm chí còn có người có ý đồ động tay động chân mà trêu ghẹo nàng. Đám nam nhân chờ hành hình đều thương hại nàng, cố gắng dịch chuyển, chừa lại một vị trí ở giữa cho nàng.

“Cô nương à, đi bên này này.”

Nàng còn chưa kịp động đậy, đám người phía sau đã nhốn nháo cả lên.

Kỷ Khương ngẩng đầu, nhìn thấy cánh cổng to lớn của nha môn mở ra, người bên trong cầm trượng trúc và bàn quỳ ra, chuẩn bị sắp xếp một khoảng đất trống trước cổng.

Trượng trúc to khoảng ba tấc rộng, một tấc dày, còn sơn đỏ trên đầu.

Người hiểu chuyện đều biết, dụng cụ hành hình có kích cỡ to lớn thế này là để uy hiếp tội nhân, khiến các đồng hương khác khiếp sợ, đau thì có đau, nhưng không phải thứ lấy mạng người.

Các nha dịch dọn bãi xong liền tới kéo người đi.

Người chờ hành hình đều biết sớm muộn gì cũng phải chịu trận này nên không bộc phát, im lặng bị bọn nha dịch đè xuống, nằm sấp trên ghế hành hình, tay chân đều bị trói lại. Không tới thời gian nửa chén trà nhỏ, mười mấy người đều không thể động đậy. Dưới thân bị cởi chỉ còn lại tiết khố. Trừ Tống Giản, thân thể Kỷ Khương trước giờ chưa từng bị nam nhân nào khác nhìn thấy. Lúc này nàng có miệng cũng không thể nói, chỉ có thể liều mạng cắn môi, nuốt xấu hổ và phẫn nộ xuống cổ họng.

Nha dịch cầm đầu phất tay, các nha dịch liền bước lên, gác gậy chuẩn bị.

Trượng trúc lạnh lẽo tuy rằng chưa trực tiếp tiếp xúc với da thịt, nhưng loại cảm giác áp bức này vẫn khiến mọi người có mặt đều run rẩy cả hai đùi. Đám đông xem náo nhiệt cũng bắt đầu ồ lên, ánh mắt một lần nữa lại tập trung vào đôi chân thon dài của Kỷ Khương. Kỷ Khương chôn mặt vào cánh tay, cắn chặt môi. Ý nghĩ lại bị kéo về cảnh tượng ba năm trước trong Văn Hoa điện.

Tống Giản cũng giống như thế này, bị trói chặt trên ghế hành hình ở Văn Hoa điện. Kỷ Khương quay lưng đứng bên ngoài. Trong điện lan tỏa mùi máu tươi nồng nặc và hương thụy não đốt trong cung đình, liên tục rót vào mũi nàng.

Nàng biết Tống Tử Minh ắt phải chết, biết Hứa Thái hậu muốn diệt tận gốc lớp áo thế gia cao quý của Tống gia, cũng biết thứ một trăm trượng này phá vỡ không phải làn da của Tống Giản, mà là thân phận hậu nhân quyền thần của y, tôn nghiêm hậu nhân thế gia của y.

Đó cũng là lần đầu tiên, Kỷ Khương nghe thấy tiếng khóc rống thảm thiết của Tống Giản. Ban đầu y còn ẩn nhẫn. Sau bốn mươi trượng, tận mắt thấy Tống Tử Minh chết thảm, y liền sụp đổ mà khóc thất thanh. Mấy trượng sau cùng ấy… cổ họng nghẹn ngào, chỉ có thể phát ra mấy tiếng cực kỳ oán hận từ trong phế quản. Là phản bội, cũng là vứt bỏ.

Mỗi câu mỗi chữ còn tàn phá trái tim người khác hơn là nỗi đau da thịt. Là chính tay Kỷ Khương hủy hoại y. Lúc nhặt xác cho Tống Tử Minh trên điện, thậm chí nàng không dám nhìn Tống Giản. Chàng nam tử trẻ tuổi mình đầy thương tích nằm trên ghế hành hình, quanh người dường như mờ ảo một làn sương máu, mà mỗi bước đi của nàng đều giẫm lên tôn nghiêm y đã từng có.

—-

(1) Trực xuyết: : Kiểu trang phục phổ biến, thịnh hành trong giới văn nhân, sĩ phu thời xưa.

Kiểu áo trực xuyết

(2) Hoàng sách: Vào thời Minh, Thanh, vì để quản lý hộ khẩu, nam nữ sinh ra đều được ghi lại vào sổ. Bìa sổ có màu vàng, nên gọi là hoàng sách.

(2) Hộ thiếp: Sổ ghi lại sản nghiệp ruộng vườn hoặc nhân khẩu của mỗi hộ.

(3) Trừ tịch: Đêm Giao thừa.

(4) Lăng la: Tên một loại tơ lụa.

Thứ dân | Chương 6

Tác giả: Tha Dữ Đăng

Dịch: Tịch Dương Mùa Hạ

thu-dan-tha-du-dang-tich-duong-mua-ha

Chẳng qua y chỉ muốn gặp nàng, nhìn thấy một Kỷ Khương phiêu linh như gió, cởi đi chiếc Cửu địch quan, bị thứ gọi là “quốc gia thiên hạ” vứt bỏ. Còn về việc sẽ giết nàng hay từ bỏ nàng, cứ để lại phía sau.

CHƯƠNG 6: ẨN TẬT

Từ Mông Âm qua Trường Sơn, sau đó nữa chính là địa phận phủ Thanh Châu.

Phủ Thanh Châu nằm giữa Đông Hải và dãy Trường Bạch Sơn, là vùng đất quan trọng phía Đông Đại Tề. Sở dĩ để Tấn Vương Kỷ Trình lãnh phiên ở phủ Thanh Châu, đại khái là vì triều đình cân nhắc tới hai điều. Thứ nhất là vì Kỷ Trình ngã ngựa thành kẻ ngốc, ngày ngày chỉ biết sống phóng đãng trai gái, mặc kệ việc quân sự và chính trị, lại có lão sư Lục Giai nổi tiếng trung thành hiền lương, một lòng một dạ chăm lo kinh tế của dân chúng. Như thế thì phủ Thanh Châu rất khó có khả năng nâng cao binh lực, uy hiếp triều đình.

Còn cuối cùng vì điều gì khiến Tống Giản vốn bị lưu đày ở Tây Bắc Gia Dục lại giữ vị trí cao nhất ở phủ Thanh Châu thì tới giờ trọng thần trong triều đình, bao gồm cả Cố Trọng Liêm đều không hiểu rõ. Thế là bọn họ chỉ có thể phỏng đoán một cách khá nông cạn từ việc hôn nhân cưới gả của y.

Lục Giai có một cô con gái đã ba mươi tuổi còn chưa xuất giá là Lục Dĩ Phương. Không phải là Lục Dĩ Phương có khuyết điểm gì. Ngược lại, nàng ta là nữ tử đoan trang thanh tú, một bụng thi thư, từng là nữ quan trong cung, nhậm chức tư tịch của Thượng Nghi cục, chưởng quản kinh thư, giấy bút, sách tranh. Giống với phụ thân mình, nàng ta có hiền danh trong cung. Lúc Kỷ Khương còn nhỏ cũng từng được thụ giáo nàng ta. Người trong cung còn tôn xưng nàng ta một tiếng là “Nữ quân tử”.

Lúc Kỷ Khương xuất giá, tiên đế từng chọn Lưu Dĩ Phương làm quản gia cho phủ Lâm Xuyên Công chúa, nhưng Hứa Thái hậu kiêng kị mối quan hệ thân thiết giữa cha nàng ta và Tấn Vương nên mượn cớ, cảm tạ nàng ta trả giá cho hoàng gia nhiều năm, không nỡ khiến nàng ta phí hoài thanh xuân, ban cho nàng ta được xuất cung, tự do cưới gả. Lưu Dĩ Phương liền theo phụ thân và Tấn Vương đến Thanh Châu.

Mùa xuân năm Gia Định đầu tiên, Tống Giản và Tống Ý Nhiên cũng đến Thanh Châu. Lục Giai và Tống Giản vừa gặp đã thân, kết bạn vong niên. Sau đó Tống Giản cầu hôn Lưu Dĩ Phương với Lục Giai. Ban đầu Lục Giai còn kiêng kị thân thế và thương tật ở chân của Tống Giản, nào ngờ con gái mình sau khi nghe chuyện hôn sự xong liền cam tâm tình nguyện. Thêm chuyện Lục Dĩ Phương đã lớn tuổi, lại từng hầu hạ trong cung, theo quy định thì không thể làm thiếp. Vì vậy rất khó có hôn phối. Lục Giai thấy Tống Giản côi cút một mình, nghĩ tới ở Thanh Châu, mình có gì mà không thể chu cấp được, con gái sẽ không thể chịu khổ, cũng liền lửng lơ đồng ý.

Mùa xuân năm tiếp theo, mẫu thân Lục Giai tạ thế ở quê nhà. Lục Giai liền xin Tấn Vương từ chức, về quê thủ hiếu. Tống Giản thay thế vị trí của Lục Giai bên cạnh Tấn Vương, một bước trở thành người đứng đầu Thanh Châu. Chỉ mất một năm, Thanh Châu quốc thái dân an, nông thương thịnh vượng, binh mã dồi dào, trận đầu đánh Tử Kinh Quan đã giã binh tướng trấn thủ Tử Kinh Quan vốn nhiều năm lười biếng thành cát vụn.

Đối với người trong thiên hạ mà nói, dù sao Tống Giản cũng là nhân vật tầm cỡ một phương, mà còn là một phương trong thời loạn thế. Nói ra thật không hay, nhưng từ sau khi Tống Tử Minh chết, Tống Giản đã thoát khỏi quan niệm đen trắng rõ ràng. Theo đó y cũng dần phát hiện, chính trị thật sự là một thứ vừa mỹ lệ vừa giá lạnh. Giá lạnh là bản thân chính trị. Mỹ lệ chính là người con gái trong thời cuộc chính trị, bao gồm cả Lưu Dĩ Phương hay Tống Ý Nhiên, bọn họ đều có dáng vẻ mềm yếu như được ngâm mềm trong nước ấm, cũng như trạng thái của thỏ con run rẩy trước miệng hổ.

Ngoại trừ Kỷ Khương.

Nhưng mà Kỷ Khương rốt cuộc là một nữ tử như thế nào, Tống Giản đã không còn muốn tìm hiểu nữa.

Giờ đây y chỉ muốn giữ một loại quan hệ đơn giản cực hạn với nữ tử này. Cái gì ba năm tình nghĩa phu thê, cái gì khoảng thời gian đoán sách vẩy hương trà, toàn bộ đều vứt bỏ.

Chẳng qua y chỉ muốn gặp nàng, nhìn thấy một Kỷ Khương phiêu linh như gió, bỏ đi chiếc Cửu địch quan, bị thứ gọi là “quốc gia thiên hạ” vứt bỏ. Còn về việc sẽ giết nàng hay từ bỏ nàng, cứ để lại phía sau.

“Đón tháng giêng năm nay thế nào đây? Hay qua mùng mười, thiếp đi đón Ý Nhiên sang đây nhé.”

Năm nay tuyết rất lớn. Lưu Dĩ Phương lại thích tuyết, bèn treo một tấm mành che tuyết bằng nan trúc trước cổng Tây Đồng Đường. Ngày thường không có gió thì bên trong mành treo rất ấm áp, mặc cho ánh tuyết rơi từng đợt từng đợt bên ngoài. Lúc này nàng ta đang ngồi sau tấm mành che tuyết, đặt một rổ bạch thược lên gối. Nàng ta cúi đầu rất thấp, ngón tay thon dài nhặt từng chút từng chút cát đá lẫn trong bạch thược.

Không thấy Tống Giản đáp lời, nàng ta mới ngẩng đầu nhìn phía sau cái giá Bác Cổ(1). Tống Giản đang cầm xem một con dấu bằng kê huyết thạch mới nhập về. Nàng ta liền không nhắc lại câu vừa rồi nữa.

“Chẳng phải lúc trước gia nói mài huyết thạch Xương Hoa sao? Đôi thạch điêu thô này vừa mới đưa tới, sao hôm nay lại lấy ra xem?”

Nàng ta đã quen với việc nói chuyện thuận theo ý thích của Tống Giản, cho dù nàng ta không hiểu mấy thứ kim thạch này có gì khác biệt.

Tống Giản đẩy con dấu trong tay về một hướng, ánh tuyết bên ngoài chiếu vào, dường như xuyên thấu qua toàn bộ mảnh thạch ấn.

“Ánh sáng hôm nay rất đẹp, ánh sáng lành lạnh hợp với thạch vân và huyết ti(2). Đẹp.”

Lưu Dĩ Phương cười cười, tay vẫn không ngừng làm việc. “Vậy à? Vậy thì tốt quá.”

Một trận gió thổi tới, khiến mành che tuyết bằng nan trúc thổi rào rào. Lưu Dĩ Phương vội buông rổ dược trên gối ra, đứng dậy. Nàng ta biết bệnh ở chân Tống Giản cực sợ gió lạnh, thế là dùng tay buông mành xuống, sau đó lướt qua chiếc giá Bác Văn, đến bên cạnh y.

“Hôm nay ăn thịt chó, Tân Nô lo làm đỉnh đồng, thiếp nhặt chút bạch thược. Buổi tối khá oi bức, ăn nhiều mới tốt.”

Nàng ta đã làm nữ quan trong cung rất lâu, biết nói gì và nên nói đến mức nào mới có thể khiến người khác nghe lọt tai mà không phản cảm. Bạch Thược là vị thuốc có ích cho bệnh ở chân Tống Giản. Từ sau khi nàng ta gả cho y, ngày ngày đều nhặt bạch thược. Nhưng nàng ta sẽ không nhắc tới công dụng của vị thuốc này trước mặt Tống Giản.

Tống Giản đặt thạch ấn trong tay lên giá bút, lại nghiêng đầu liếc nhìn rổ dược Lưu Dĩ Phương đang đặt trước cửa.

“Quên mất, ngày mai là lập xuân rồi.”

“Dạ đúng”.

Nàng ta cũng nghe ra được, phía sau những lời này ẩn giấu nữ tử kia. Nhưng nàng ta vẫn không hỏi gì cả, chậm rãi ngồi xổm xuống, tự tay thêm than vào lò sưởi dưới chân y. Than mới vừa vào lò đã vang lên tiếng lốp bốp. Giọng nói nàng ta nhợt nhạt, trái tim lại có muôn ngàn gút mắc. Mỗi gút mắc đều dựa theo cảm xúc của Tống Giản.

“Gia không thích mừng năm mới. Tết nhất nhà chúng ta cũng nhàn. Nhưng mấy người Trần thị thì vẫn còn trẻ, lại là người mới. Trong tháng giêng không làm gì cũng thôi, có thể tìm chút chuyện cho các nàng chơi. Nếu không thì qua mùng mười, thiếp đi đón Ý Nhiên muội muội sang. Chúng ta chơi mấy ván bài lá cây. Gia bỏ tiền ra thì dù thắng hay thua, ai trong chúng ta cũng vui vẻ.”

Nàng ta lại nhắc đến chủ đề này.

“Trong phủ Dương Khánh Hoài có quy củ này sao?”

Dương Khánh Hoài trong lời y là tri phủ Thanh Châu. Tuy rằng cũng là quan lớn một phương, nhưng do còn có thế lực phiên vương lớn mạnh nên không có chỗ thể hiện quyền thế của quan viên. Con người Lục Giai tuy rằng ngay thẳng trung lương, nhưng làm người lại rất áp bức. Hai tri phủ Thanh Châu lúc nhậm chức đều không đối phó nổi hắn, thường ầm ĩ đến gà bay chó sủa, cho đến khi triều đình cử cái bị rơm Dương Khánh Hoài này tới.

Dương Khánh Hoài là đệ đệ của Dương Bác, tướng trấn thủ Gia Dục, bản thân cũng có công danh cử nhân, nhờ sự giúp đỡ gián tiếp của gia tộc ở Tứ Xuyên, Tây Bắc Giang Tây mà làm vài chức quan. Khi ở Tây Bắc đã gặp gỡ Tống Ý Nhiên, lúc đó đang là quân kỹ trong quân doanh của ca ca mình. Hai người nảy sinh tình duyên ngắn ngủi, sau đó lại giống như củi khô bốc cháy. Nhưng hắn là hậu nhân danh môn, dù thế nào thì thê thiếp trong nhà cũng không thể có một nữ nhân xuất thân tiện tịch. Thế là Dương Khánh Hoài luôn nuôi dưỡng Tống Ý Nhiên bên ngoài.

Sau đó, hắn thăng chức làm tri phủ Thanh Châu. Tống Ý Nhiên và Tống Giản cũng đi theo hắn.

Từ một ý nghĩa nào đó mà nói thì hắn chính là quý nhân của Tống Giản.

“Năm ngoái cũng làm vậy mà, mặc kệ phủ tri phủ họ có quy củ thế nào, Ý Nhiên đã là người nhà của gia thì không thể để muội ấy chịu uất ức. Chúng ta đặt ra quy củ cũng giống nhau thôi. Hơn nữa, mấy ngày Tết này thì Dương tri phủ cũng không ra ngoài được.

Lục Dĩ Phương thêm khối than cuối cùng xong, đứng lên, nhẹ vỗ vỗ bàn tay.

“Sức khỏe muội ấy không tốt, bên chỗ muội ấy thỉnh y dùng dược, khó tránh khỏi có những lời khó nghe truyền ra ngoài. Chi bằng sang chỗ chúng ta, cũng dễ mời đại phu tới trông chừng, uống thuốc.”

Tống Ý Nhiên là muội muội cùng mẹ của y, ban đầu vì có thể giữ được đôi chân cho y mà bị biết bao nam nhân sài lang hổ báo chà đạp, thân thể cũng hỏng hết. Hoặc có thể nói thế này, đôi chân này của y là do Tống Ý Nhiên dùng danh tiết cả đời, hạnh phúc cả đời để đổi lấy. Nhưng cho dù là vậy, y cũng không thể ép Dương Khánh Hoài cho muội muội mình một danh phận. Đây chính là chính trị, và số phận nữ nhân trong thế cục chính trị.

Y vừa nghĩ lại cảm thấy không thoải mái, thuận miệng đáp. “Được, nàng sắp xếp đi.”

Hai người đang nói chuyện, tiểu đồng bên ngoài bước vào nói. “Bên ngoài có người tìm gia.”

Lục Dĩ Phương nói: “Hôm nay chưởng quầy Lung Linh trai đã nói sẽ sang giao mao thạch cho gia.” Nói rồi nàng ta lại hỏi: “Tuyết ở ngoài còn lớn không?”

Tiểu đồng nói: “Lớn lắm ạ. Rơi giống như lông ngỗng vậy.”

Lục Dĩ Phương do dự một lát. “Gia vẫn đi xem à?”

Tống Giản còn chưa nói gì, tiểu đồng lại hơi ngập ngừng.

“Gia, đại nhân, người tới hình như không phải chưởng quầy. Là một người trẻ tuổi. Bọn tiểu nhân hỏi hắn đến tìm gia có chuyện gì, hắn cũng không nói, chỉ nói họ Cố, từ… từ trên núi nào đó xuống.”

Tống Giản cười gằn một tiếng. “Cố Hữu Hối à?’

Lưu Dĩ Phương cũng từng nghe tên người này. “Hắn không phải là con trai duy nhất của Cố Trọng Liêm sao? Nghe nói sau khi lên núi thì không về nữa, sao đột nhiên lại xuất hiện ở Thanh Châu?”

Tống Giản hất cằm: “Dẫn hắn vào đây.”

Tiểu đồng ra ngoài truyền lời, rất nhanh thì đã sầu não quay lại.

“Gia, vị thiếu gia đó hung hăng lắm. Tiểu nhân nói gia mời hắn vào, hắn lại không vào. Trừ khi gia ra gặp hắn. Trương quản gia không chịu nổi, nói gia chúng ta là nhân vật lớn cỡ nào, sao có thể mặc cho hắn chi phối. Ai biết được hắn phát điên bên ngoài, suýt chút nữa đã xẻo tai Trương quản gia rồi.”

Lưu Dĩ Phương sắp đứng dậy, lại bị Tống Giản ngăn lại. Hắn mượn thế đứng dậy.

“Nàng ngồi đó đi. Ta ra gặp hắn.”

Lưu Dĩ Phương còn muốn nói gì nữa, nhưng y đã đi ra từ sau bàn sách, vừa đi vừa nói: “Không sao đâu, mấy bước thôi. Đi được.”

(1) Giá Bát Cổ: Dạng kệ lớn có nhiều ô đặt trong phòng sách, dùng để đặt bình hoa, sách và các vật trang trí.

(2) Thạch vân: Là những dấu vết uốn lượn như đám mây trong các loại đá. Huyết ti là dấu vết màu đỏ rực trên đá, trông như dòng máu chảy.

Đang phiêu với độ lầy lội của anh Hối, chuyển sang chương này thấy dài kinh khủng. Cả chương còn không có bé Khương nữa chứ. Hix hix.

Thứ dân – Chương 5

THỨ DÂN

Tác giả: Tha Dữ Đăng

Dịch: Tịch Dương Mùa Hạ

thu-dan-5

“Áo xanh lỗi lạc, tựa như kẻ đang ngồi hưởng phú quý và mỹ nhân giữa nhân gian, lại như thần tiên trong trang sách, không mảy may nhiễm chút hôi tanh dơ bẩn của người đời.”

CHƯƠNG 5: LẬU ĐÔNG

Hữu Hối! Là Cố Hữu Hối ư?

Kỷ Khương từng nghe nhắc đến tên người này. Hắn là con trai duy nhất của Cố Trọng Liêm. Nhưng không rõ vì sao, năm đó Kỷ Khương đại hôn, Cố Trọng Liêm lại gửi hắn lên một ngọn núi không biết rõ tên, nói với bên ngoài là đứa con này thể chất bạc nhược, mua bao nhiêu thế thân trong chùa miếu đều không sống nổi. Cuối cùng, bất đắc dĩ đành phải gửi hắn lên núi, để thần phật trấn mệnh cho hắn suốt đời.

Cứ đồn như vậy, Cố Hữu Hối thật sự bị đồn đến mức thần bí.

Kỷ Khương cũng rất để ý đến cái tên này của hắn, Hữu Hối.

Đây tuyệt đối là một cái tên đầy khí chất giang hồ. Cố Trọng Liêm là trạng nguyên thời tiên đế, là văn hào nho giáo. Ngay cả đặt tên cho cảnh vật chi tiết trong tiểu viện ở dinh phủ cũng phải dẫn kinh trích sách. Từ sau khi Trần Hiến Chương(1) mở ra tâm học(2) “Hàm dưỡng tâm tính, tịnh dưỡng đoan nghê”, Cố Trọng Liêm là người thừa kế tư tưởng của họ Trần. Người ở vị trí cao, trình độ tinh thần cũng phải đứng đầu thời đại. Nhưng tên húy của con trai ông ấy, cho dù không chứa hết biết bao thâm sâu của vị danh thần này thì chí ít cũng không nên là cái tên hai chữ trực tiếp như thế chứ.

Hữu Hối, rốt cuộc là hối tiếc điều gì?

“Này!”

Kỷ Khương đang trầm tư, người trên chạc cây đã gọi nàng một tiếng. Tiếp đó, một mảnh trên sam bào(3) liền lững lờ rơi xuống mặt nàng.

“Lau nước trên mặt cô đi.”

Nói rồi, Cố Hữu Hối nhảy từ trên cây xuống. Cành cây xiêu vẹo đâm phải miệng vết thương trên vai hắn. Hắn vội giơ tay ấn xuống, miệng thở ra một ngụm khí lạnh.

Kỷ Khương ngẩng đầu nhìn hắn: “Huynh không xử lý miệng vết thương trên vai sao?”

Cố Hữu Hối chẳng thèm quan tâm. “Chút vết thương nhỏ này mà còn để ý thì làm sao hành tẩu giang hồ.”

Hắn hơi cắn lưỡi nói bốn chữ “hành tẩu giang hồ”. Phát âm tiếng Phổ Thông bốn chữ này cũng không tốt lắm. Cố Hữu hối nói một lần, dường như cảm thấy không trơn tru lắm. Hắn khụ một tiếng, cố làm lại lần nữa. Lần này suýt chút nữa cắn phải đầu lưỡi thật.

Kỷ Khương đang ngồi dưới tàng cây liền bật cười thành tiếng. Cố Hữu Hối lại cực kỳ ảo não.

“Cô đừng cười ta.”

Kỷ Khương đã hai mươi mấy tuổi, gặp rất nhiều thái giám và nữ quan trơ đá, đây mới là lần đầu tiên nàng gặp một người sinh động lại càn rỡ như như Cố Hữu Hối, thật sự không nén được. Hắn không cho nàng cười, nàng càng cười đến mức không dừng lại được.

Nụ cười chân thật nở rộ tựa như hoa xuân trong tiết tháng tư, trước mắt Cố Hữu Hối rực rỡ một vẻ đẹp vừa chói mắt lại vừa lộng lẫy.

Cố Hữu Hối lột bỏ sự ảo não trên mặt, thuận tay ngắt lá khô trên cây, thoáng chút không dám nhìn nàng.

Kỷ Khương cười đủ rồi, bèn đứng dậy hỏi hắn. “Huynh từng hành tẩu giang hồ thật sao?”

Cố Hữu Hối thả rơi chiếc lá vừa bị vò nát trên tay, đặt kiếm trước hai chân. Gương mặt hắn lại lộ vẻ quạnh hiu. “Đương nhiên là từng đi rồi. Nhưng mà, kỳ thật thế đạo hiện nay, nơi nào còn có giang hồ gì đó chứ.”

Nói rồi hắn lại giơ kiếm lên, thuận tay hái một loại quả mùa đông trên đỉnh đầu. Đang muốn đưa cho Kỷ Khương, nghĩ nghĩ, hắn lại cẩn thận lau lau lên vạt áo, sau đó mới đưa cho nàng.

“Ăn chút này đi, cho bớt sợ.”

Kỷ Khương nhận trái cây hắn đưa, há mồm cắn một ngụm. Trái cây còn sót lại sau đông đong đầy mọng nước ngọt ngào. Cắn một miếng liền đi thẳng qua giữa môi răng. Nàng vừa thưởng thức mùi vị trái cây, lại hỏi chuyện phiếm. “Sao huynh lại nói thế đạo hiện nay không có giang hồ chứ?”

Cố Hữu Hối đang tựa người vào thân cây. “Thời loạn thế mới có giang hồ. Thời nay đúng thật là loạn thế, nhưng mà mấy người Cẩm y vệ và Đông Xưởng đều giống như đạo tặc, lén lút khắp nơi, vơ vét tài sản của dân. Hạ mấy đao thì đã giết cả nhà, như thể chuyện hiển nhiên. Giết người mà cứ như chỉ để lại cho người ta một vết sẹo thôi ấy, không thèm chớp mắt một cái nữa. Trái lại, giang hồ hào kiệt thật sự, chỉ bất cẩn một chút đã bị coi là lưu dân bắt lại. Suốt chặng đường ta đi theo cô, ta đã thấy mấy trường hợp bị hành hình treo trước cửa nha môn rồi. Nói tới, có mấy người còn từng gặp ta nữa đấy. Ôi… Cái gì gọi là anh hùng báo quốc, không có cửa đâu. Hiệp khách còn không bằng hát tuồng nữa. Một thân hành hiệp trung can nghĩa đảm, lại bị lột hết quần áo, đánh trước mặt bá tánh. Cô nói xem, còn có mấy ai muốn cướp giàu chia nghèo, trừng phạt tham ô? Họ đã thất vọng từ lâu rồi.”

Hắn nói một hơi rất nhiều, cũng không thèm để ý cô gái trong cung này nghe hiểu được bao nhiêu.

“Đúng rồi, cô muốn đi phủ Thanh Châu à?”

“Ừm”

Kỷ Khương nuốt xuống miếng trái cây cuối cùng, vẫn còn chưa hết thèm.

“Chắc cô muốn đi tìm Tống Giản. Nghe nói hắn sống ở Thanh Châu khá lắm.”

Kỷ Khương suýt nữa đã bị sặc. “Huynh nói chuyện thú vị lắm đó. Nghe giọng điệu huynh hẳn là biết chàng.”

Cố Hữu Hối ngẩng đầu lên. “Trước đây, lúc ta còn ở nhà thì đã biết hắn rồi. Sau đó… Hai năm trước cũng từng gặp lại một lần. Muội muội hắn là Tống Ý Nhiên đưa hắn đến tìm sư phụ ta, nhờ chữa tật ở chân cho hắn.

Kỷ Khương vội hỏi tiếp: “Chân chàng thế nào rồi?”

Cố Hữu Hối hơi căm hờn: “Cô còn không biết sao? Lúc ấy không biết là ai đã ép hắn quỳ ra khỏi Đế Kinh. Hắn bò cả chặng đường đến Gia Dục. Đầu gối bị ma sát đến thịt cũng chẳng còn. Chỉ nhìn thấy hai mảnh xương trắng trong đầu gối. Sư phụ ta chữa cho hắn nửa năm mới miễn cưỡng có thể đứng lên được. Hai năm này, phần lớn thời gian chỉ có thể đi lại bằng xe lăn thôi.”

Kể đến đây, Cố Hữu Hối cũng không còn thái độ ngả ngớn nữa. “Nếu nói đến chính trị quân sự, Đại Tề không có thanh niên nào giỏi hơn hắn. Một nhân vật như thế lại cưới công chúa, phí hoài cả cuộc đời cũng thôi đi. Triều đình các người còn ép hắn nhà tan cửa nát. Nếu là ta, ta cũng hận chết triều đình luôn.”

Hắn ôm thanh kiếm vào lòng, căm phẫn trào dâng mà nói, tựa như bản thân hắn và triều đình chẳng có chút quan hệ nào vậy.

“Bây giờ cô đi tìm hắn, sợ là đi tìm chết thật đấy.”

“Ta biết.”

“Biết mà cô còn đi à?”

Kỷ Khương nâng đôi mắt sáng như trăng sao lên. “Không tìm chàng thì ta biết đi đâu chứ. Chúng ta là phu thê. Nay ta đã bị loại bỏ tông tịch, chàng chính là chủ hộ của ta.”

“Hở?”

Cố Hữu Hối ‘phắt’ một cái, nhảy bật dậy. “Chủ hộ cái gì chứ? Cô còn chưa biết sao? Hắn đã cưới vợ ở phủ Thanh Châu từ lâu rồi. Mỹ thiếp kiều nương đều nạp mấy phòng rồi đấy. Thê tử của hắn là Lục Dĩ Phương, con gái của Lục Giai. Bây giờ cô tới gặp hắn, hắn còn không chà đạp cô xuống bùn sao? Còn nữa, muội muội của hắn là Tống Ý Nhiên, gặp cô thì chắc sẽ lột da cô đấy. Cô không biết ở Gia Dục, cô ta vì cứu mạng ca ca mình mà trèo lên giường biết bao nhiêu người đâu. Giờ mang đầy bệnh tật. Lúc này…”

Hắn nói chuyện khá xúc động, nhìn thấy đôi mắt như sao của Kỷ Khương dần dần ảm đạm mới hậm hực ngậm miệng.

“Ta chỉ sợ hắn giết cô thôi. Ta không muốn cô chết. Dù sao cô chết rồi, sư phụ ta cũng không để ta sống đâu.”

Nói rồi, hắn có chút suy sụp mà ngồi xuống sát bên nàng.

“Này, hay cô đừng đi phủ Thanh Châu nữa nhé.”

Kỷ Khương ngẩng đầu. Tuyết trên núi đã ngưng tụ thành sương, long lanh trong vắt đậu lên một chiếc lá không còn lưu lại trên cành cây khô nữa. Làn gió khô lạnh thổi tới, lượn lờ mà xông vào mắt nàng, lại đào ra người nàng luôn chôn giấu tận đáy lòng.

Tống Giản là người rất thích mặc sam bào màu xanh. Sau khi thành thân, từ bỏ chức quan, thường ngày y đều nhàn rỗi ở nhà, cũng rất thích dạy nàng viết chữ. Mỗi lần hắn đều nhẹ nhàng nắm lấy tay nàng, dạy nàng phải dùng sức cổ tay thế nào, đầu bút hất lên ra sao. Đến khi viết xong, hắn lại tự tay che nghiên mực, gác bút Bình Hồ, tiếp đó dùng đôi tay nóng bỏng dịu dàng của mình phủ lên tay nàng.

Sau đó Kỷ Khương còn xây dựng đình Lưu Thương vì hắn. Tết Trùng dương hay đêm Trung thu, hai người sẽ trải chiếu ngồi, dọn những quyển sách vô dụng mà đẹp đẽ trong thư lầu ra. Kỷ Khương nói một câu, Tống Giản sẽ dẫn điển cố và xuất xứ một cách trôi chảy. Áo xanh lỗi lạc, tựa như kẻ đang ngồi hưởng phú quý và mỹ nhân giữa nhân gian, lại như thần tiên trong trang sách, không mảy may nhiễm chút hôi tanh dơ bẩn của người đời.

Trong những năm tháng ấy, tuy rằng Tống Giản không thâm tình, nhưng cũng xem như một nam tử rất đỗi dịu dàng.

“Hữu Hối, huynh vừa hỏi ta, vì sao phải tìm chàng?”

“Ừm.”

Cố Hữu Hối ngồi thẳng dậy nhìn nàng, vụn sương tuyết rơi một hai cái trên tóc mai hắn, dần dần tan thành bọt nước trong suốt, cũng giống như những tinh thạch rơi trên tóc nàng.

“Thứ nhất là vì Đại Tề. Ta phải giúp đệ đệ ta giải vây nguy khốn ở sông Bạch Thủy. Thứ hai…”

Nàng nhắm mắt, cười cười. “Hai năm này, mỗi khi ta phải tìm cho mình một chốn về thì ta sẽ nghĩ tới chàng, nhớ tới chàng. Dù là ai cũng không thể lọt vào mắt ta. Thứ ba…”

Nàng hít một hơi: “Thứ ba là trên đường đi, ta vẫn khá nhớ chàng. Ta biết chàng hận ta. Nhưng một khi ta là thứ dân, một khi chàng là thần tử, như vậy cũng tốt lắm mà. Ta và chàng đều không đi quá xa, cũng không ai mong muốn quá nhiều. Như vậy rất công bằng.”

Nàng nói thế, đến lượt Cố Hữu Hối không hiểu.

Cái gì gọi là “ta và chàng đều không đi quá xa, cũng không ai mong muốn quá nhiều.” Hắn không hiểu, chẳng lẽ những thứ Tống Giản muốn còn không nhiều sao? Nhưng mà đứng trên lập trường của hắn, hắn cũng không tiện thắc mắc mà hỏi tới nỗi đau của Kỷ Khương nữa.

Dứt khoác huýt sáo một cái, phá tan bầu không khí thương cảm này.

“Ái chà, nếu cô muốn đi thì đi đi. Vốn ta muốn âm thầm bảo vệ, đưa cô đến phủ Thanh Châu. Nhưng giờ chuyện đã thế này rồi, xem ra ta cũng không cần lén lút đi theo cô nữa. Đi cùng nhau nhé. Trên đường sợ là còn có tai họa khác nữa.”

“Tai họa khác? Ý huynh là gì?”

Cố Hữu Hối nhìn về hướng vừa bị tập kích. “Cô cho rằng mấy người đó thật sự là sơn tặc sao? Có muốn ta vạch quần chúng cho cô xem không, xem chúng là người thế nào?”

Mặt Kỷ Khương ửng đỏ. “Ý huynh là, bọn họ là người của Đông Xưởng à? Vậy sao bọn họ còn… còn…”

Nàng là người cao quý như thế, có những lời dù thế nào cũng không thể thốt ra được?

Cố Hữu Hối tiếp lời. “Nếu cứ trắng trợn giết cô, vậy chẳng phải là ép cha ta ra tay với Đông Xưởng à? Nhưng cũng không thể giả làm sơn tặc cướp tiền cướp sắc để che giấu tai mắt người đời được. Cô muốn nói vì sao họ phải cởi thắt lưng ra chứ gì? Thái giám đều không muốn làm chuyện đó. Cô là nữ tử trong cung ra, có gì mà không tiện mở miệng chứ. Nhưng mà ta cũng không nghĩ ra, sao người của Đông Xưởng lại phải ra tay với cô?”

Kỷ Khương nhăn mày nghĩ ngợi: “Có người… không muốn để Tống Giản rút binh chăng.”

“Ai thế? Xưởng thần Đông Xưởng, Lương Hữu Thiện à?”

Cố Hữu Hối thốt ra cái tên này, lại cảm thấy kiêng kị. Hắn phun nước bọt nói: “Hừ, đám chó thiến, lại có tên húy giống bổn thiếu gia tới vậy.”

Kỷ Khương bị hắn chọc cười. “Cố đại nhân cả đời văn nho, sao lại đặt cái tên như vậy cho huynh?”

Cố Hữu Hối đứng dậy. “Không phải cha ta chọn, tên ta là do mẹ ta đặt.”

Nói rồi hắn lại bấm tay làm còi, tiêu sái thổi một hồi. Tiếp đó trong sơn cốc liền vang lên tiếng vó ngựa.

“Ngựa của cô bị đâm chết rồi, không cưỡi được nữa. Cho cô cưỡi ngựa của ta đấy.”

“Vậy còn huynh thì sao?”

“Ta à? Cô yên tâm đi. Ta không dám cưỡi chung ngựa với công chúa đâu.” Hắn vừa nói vừa chỉ xuống chân mình.

“Ta dùng đôi chân này là sẽ đuổi kịp cô thôi.”

(1) Trần Hiến Chương (1428-1500) tự Công Phủ, hiệu Thạch Trai, quê thôn Đô Hội, Tân Hội, Quảng Đông. Năm 10 tuổi theo tổ phụ dời nhà qua thôn Bạch Sa, Tân Hội, nên sau này xưng là Trần Bạch Sa, được người gọi Bạch Sa tiên sinh, là nhà thơ, nhà thư pháp, giáo dục thời Minh. Năm 1448 thi đỗ phó bảng tiến sĩ, được tiến cử vào làm việc trong Quốc Tử Giám. Đến năm 1451 xin về quê tại Bạch Sa, dạy học, đọc sách, làm thơ, thư hoạ. Trước tác có Bạch Sa tử toàn.

(2) Tâm học: Học thuyết do Vương Thủ Nhân đề ra, dựa theo học thuyết triết học duy tâm chủ quan của Lục Cửu Uyên, coi tâm, đạo và trời là một, nếu hiểu rõ “tâm” , thì cũng hiểu được đạo và trời.

(3) Sam bào: Kiểu áo phổ biến của người thời cổ.

Thứ dân – Chương 4

THỨ DÂN

Tha Dữ Đăng

Dịch: Tịch Dương Mùa Hạ

thu-dan-4

Kỷ Khương vội vàng tránh sau tàng cây. Lúc này mới phát hiện, người vừa nói là một thiếu niên cao gầy mặc áo bào xanh, trong tay cầm bảo kiếm sắc bén lấp lánh.

CHƯƠNG 4: HỮU HỐI

Kỷ Khương không biết chiếc nhẫn ngọc phù dung này có ý nghĩa gì.

Nhưng quy định hộ tịch của Đại Tề rất nghiêm khắc. Thời Tống Tử Minh, kho lương thực trong quốc khố đầy ắp, để tạo thành thói quen sinh sống của người Đại Tề nên ông đã nhiều lần khuyên hoàng đế ra chỉ dụ: “Dân phải giữ nghề, không được du thực”. Những người mua bán xa quê phải mang theo lộ dẫn(1) ra vào của quan phủ. Nếu không, nặng thì tử hình, nhẹ thì đày đi biên ải.

Ở Triệu huyện từng có trường hợp đi mua thuốc cho mẫu thân, không mang theo lộ dẫn ra vào của quan phủ, liền bị tri huyện đánh hai mươi bản, bỏ tù một tháng. Sau khi về quê mới phát hiện mẫu thân đã chết đói từ lâu rồi. Chuyện này truyền tới tai triều đình, triều đình cũng không xử lý tri huyện Triệu huyện, nhưng có thể thấy được triều đình đối với việc quản lý hộ tịch và di chuyển nhân khẩu là không hề nể tình.

Kỷ Khương bị tước bỏ phong hào công chúa, biếm làm thứ dân. Dựa theo quy tắc trong cung, đa phần sẽ tìm một sân viện nhốt nàng hết đời. Dù sao nàng cũng là người của hoàng gia. Cho dù phạm lỗi, bị tước bỏ thân phận hoàng tộc thì cũng không thể nhập vào tiện tịch(2) hoặc sung vào giáo phường làm quan kĩ, càng không thể giống như lưu dân(3) bên ngoài, lang bạt tứ phía kiếm sống.

Rõ ràng Tống Giản biết rõ điều này nên mới buộc nàng chính tay mang thánh chỉ đến Thanh Châu.

Nhưng Kỷ Khương vẫn rất vui vẻ. Chí ít thì Tống Giản vẫn còn muốn gặp nàng. Có thể xem như nàng vẫn còn một chỗ để đi.

Nhưng mà đường đến Thanh Châu rất xa, lại phải băng qua vô số châu huyện. Tống Giản không cho nàng nhiều thời gian. Nàng không thể như bá tánh bình thường, đến phủ nha lấy lộ dẫn gì đó. Nhẫn ngọc phù dung trong tay trở thành chứng vật thay cho giấy thông hành. Hoàng đế hạ chỉ, các châu phủ từ Đế Kinh đến Thanh Châu, lấy nhẫn ngọc phù dung làm tín vật, thấy thì cho qua, không được cản trở Kỷ Khương. Vì vậy mà cả đường Kỷ Khương cưỡi ngựa lên phía Bắc cực kỳ thuận lợi.

Qua Tử Kinh Quan thì đã vào tới Mông Âm. Từ Mông Âm vào Trường Sơn, nhiều lắm cũng chỉ đi thêm hai ngày đường núi nữa là có thể đến phủ Thanh Châu. Nhưng đường Trường Sơn lại không dễ đi. Trong đó còn có lưu dân vào rừng làm cướp, chuyên chém giết thương lữ đi đường. Kỷ Khương nhìn thấy bên ngựa còn có ngân lượng mà Đặng Thuấn Nghi tốt bụng chuẩn bị cho nàng, đột nhiên cảm thấy phiền toái. Suy nghĩ một lát lại đồng cảm với những người mua bán ở Đại Tề. Triều đình không giúp đỡ không nói, còn phải liều mạng kiếm mấy đồng tiền. Đi đường cũng có thể ngỏm củ tỏi bất cứ lúc nào.

Từ ‘ngỏm củ tỏi’ này thật sự xuất hiện trong đầu nàng, điều này khiến Kỷ Khương không nén được che miệng sững sờ.

Từ khi rời khỏi Đế Kinh, mọi người trong thiên hạ đều cho rằng nàng sẽ không chịu được khuất nhục mà tự sát trên đường. Thế mà lòng nàng thậm chí còn vui vẻ thoải mái hơn hồi ở Đế Kinh. Trời đất bao la. Đến đâu cũng là cảnh sắc tuyệt đẹp lạ kỳ. Lúc Tống Giản còn ở phủ Công chúa thường kể với nàng chuyện sông núi tươi đẹp bên ngoài Đế Kinh. Tình cảm sâu nặng, còn hẹn sẽ cùng nắm tay đi du ngoạn. Những điều này Kỷ Khương vẫn còn nhớ rõ.

Trong thời đại của nàng, Đại Tề chỉ có một vị công chúa. Diễm lệ thông minh như đào mận, lại có khả năng gánh vác. Tấm lòng yêu hận đều cực kỳ thẳng thắn. Lúc lập trường khác nhau, nàng là kiếp nạn trong cuộc đời Tống Giản. Vậy nếu từ bỏ những lập trường trước đây thì sao?

Kỷ Khương nhớ tới gương mặt Tống Giản, bỗng có chút ngẩn ngơ. Đột nhiên dưới thân ngựa nghiêng ngả. Kỷ Khương mất thăng bằng, rơi từ trên lưng ngựa xuống. Thấy sắp ngã xuống vách núi, nàng đành phải rút trâm trên đầu ra, dùng sức đâm vào bụng ngựa. Con ngựa vốn bị bẫy thú làm bị thương, lúc này còn bị Kỷ Khương dùng sức đâm liền giống như nổi điên vùng vẫy, nhờ vậy mà kéo được Kỷ Khương từ bờ vực lên.

Kỷ Khương buông tay ra, còn chưa hết hoảng hốt. Chưa kịp đứng lên đã nghe thấy tiếng động phía trước ngựa. Mấy hắc y nhân nhảy ra từ trong bụi cây. Dẫn đầu là một nam nhân cao lớn vạm vỡ. Hắn ấn đầu ngựa xuống, lấy tiền treo trên đó ra.

“Ôi, phu nhân nhà nào thế? Vụ này tặng chúng ta một đại quý nhân rồi.”

Một tên lâu la rút cây trâm nàng cắm trong bụng ngựa ra. “Gia, ngài xem thủ công của cây trâm này này. Giống như chế tác của đại nội vậy. Đáng giá lắm đấy.”

Lòng Kỷ Khương lạnh lẽo. Thật sự gặp phải kẻ xấu rồi.

Nghe người nọ nhắc tới cây trâm của mình, nàng vội siết chặt chiếc nhẫn ngọc phù dung trong tay.

“Các vị đại gia, thiếp muốn vào Thanh Châu tìm phu quân. Nhà phu quân ta gia tài bạc triệu, phú khả địch quốc (4). Nếu ngài để ta đến Thanh Châu, phu quân nhà ta nhất định sẽ hậu tạ.”

Trong lúc sống chết, nàng nhắc bậy bạ tới Tống Giản, tự xem là thật mà nói cực kỳ lưu loát.

Mà rõ ràng những kẻ này cũng coi trọng người như nàng.

“Thả cô? Lão gia ta kiếm sống trên đường này gần mười năm rồi, thấy toàn là dân buôn bán nhỏ, chọn phế liệu, còn chưa từng gặp nữ tử nào giàu có xinh đẹp như cô đâu. Huynh đệ ta còn chưa có vợ đấy. Hôm nay không bắt cô cho họ khai trai, để cái phía dưới của họ sung sướng. Sao họ còn theo lão gia ta đi cướp chứ.”

Gã vừa ăn nói thô tục, vừa cởi thắt lưng quần ra. Mấy tiểu lâu la bên cạnh đều ồ lên.

Kỷ Khương nhìn thân thể cao lớn đang từng bước đến gần mình, lại liếc nhìn vách núi phía sau. Nàng cũng không muốn chết. Nhưng ngay cả người như Đặng Thuấn Nghi, nàng còn cảm thấy là khinh nhờn chính mình, đừng nói đến mấy nam nhân trước mặt này. Bị kẻ khác làm nhục, chi bằng đánh cược một lần.

Nhưng nàng vừa mới đứng dậy, lui về phía sau, đã nghe thấy trên đỉnh đầu vang lên một giọng nói: “Đồ khốn, không được chết.”

Mắng nàng là đồ khốn?

Kỷ Khương chưa kịp phản ứng. Đợi đến lúc nàng nhìn rõ chủ nhân của giọng nói thì đã bị người ta tóm lấy, ném ra sau cây đại thụ. Hắn dùng nhiều sức, lưng nàng hầu như đập vào cây. Còn chưa kịp đã mở miệng đã nghe thấy giọng nói ấy tiếp lời: “Tránh đi, đừng bước ra!”

Kỷ Khương vội vàng tránh sau tàng cây. Lúc này mới phát hiện, người vừa nói là một thiếu niên cao gầy mặc áo bào xanh, trong tay cầm bảo kiếm sắc bén lấp lánh.

Kẻ xấu thấy vậy, lập tức thu lại nụ cười, quát to. “Giết hắn! Nhất định không được để nữ tử này chạy thoát.”

Chàng thiếu niên cười nhạt: “Giết ta à? Người trên giang hồ nói muốn giết ta đều bị ta giết sạch rồi. Các người có lai lịch gì? Mau xưng tên đi. May thì ta còn viết thêm vài nét lên sổ đầu người của ta.”

Kỷ Khương nghe hắn nói chuyện hung ác liền cố gắng động não xem mình biết người như vậy từ lúc nào.

Nàng là nữ tử trưởng thành trong cung, mà người này trông không giống hoàng tộc hay người của quan phủ. Tuy hắn nói tiếng Phổ Thông, nhưng khẩu âm lại hơi kỳ quái.

Nàng còn chưa nghĩ kỹ, kiếm của thiếu niên đã vấy máu.

Thật sự là thân thủ nhất đẳng, đường kiếm như nước chảy mây trôi, không một chiêu thừa. Này da này thịt, nhất định phải gây ra vết thương lớn mới chịu thôi. Mấy người này rõ ràng không phải đối thủ của hắn. Chưa được một lát thì đã nằm la liệt dưới đất.

Thiếu niên thu kiếm, lau lau chóp mũi.

“Ta đã bảo các người xưng danh tính đi mà. Giờ thì hay rồi, sổ đầu người của ta sao mà viết đây…”

Còn chưa dứt lời, hắn bỗng cảm thấy sau lưng lạnh lẽo, tiếp theo liền nghe thấy tiếng ‘bộp’. Vai trái nhói lên cơn đau. Hắn quay đầu, tận mắt thấy một mũi tên bay sướt qua vai.

Nguy hiểm thật…

Hắn rất bực mình, quay đầu đạp lên đầu gã lâu la còn chưa chết hẳn, vừa lén bắn tên.

Đoạn nghiêng người nói với Kỷ Khương lúc này đang đứng sau thân cây, tay nàng cầm một hòn đá.

“Lâm Xuyên Công chúa! Không ngờ cô còn biết lấy đá đập nhé. Cô đúng là thiên tài luyện võ đấy.”

Nói rồi hắn dùng mũi tên cắt cổ người nọ. Máu phun ra từ động mạch cổ, bắn đầy mặt Kỷ Khương. Kỷ Khương vội buông đá xuống lau. Càng lau mắt lại càng đau nhói.

Chàng thiếu niên đi tới, nắm lấy tay nàng. “Đừng lau nữa, máu lau không hết đâu. Bên đó có một dòng sông, để ta dẫn cô đi rửa.”

Nói rồi, hắn cũng mặc kệ Kỷ Khương có đồng ý hay không, một tay cầm kiếm, một tay kéo Kỷ Khương đi về phía bờ sông.

Kỷ Khương đứng bên bờ sông, quay đầu nhìn hắn.

Thiếu niên nhún nhún vai, thuận tay xé một mảnh vải trên áo mình, vừa che mắt lại vừa bước đến bên gốc đại thụ. “Công chúa rửa mặt chải đầu đi. Phi lễ chớ nhìn, phi lễ chớ xem. Ta đây chẳng biết gì hết.”

Nói rồi liền nhảy lên thân cây, cả người làm tổ trong chạc cây. Đôi chân cứ lắc lư, miệng thổi một bài ca dao chẳng biết tên là gì.

Lúc này Kỷ Khương mới ngồi xổm xuống. Dòng chảy trên núi trong vắt, phản chiếu lên gương mặt đầy máu của nàng. Máu xuôi một đường từ cổ xuống giữa bụng, dinh dính khó chịu. Nàng nghe thấy bài ca dao ngả ngớn trong miệng thiếu niên, quả thật không chắc hắn có nhìn lén hay không. Nàng nghĩ nghĩ, vẫn vốc nước rửa mặt trước.

“Này!”, Kỷ Khương rửa mặt xong, bước tới dưới tàng cây gọi hắn một tiếng.

“Ta không phải tên ‘Này’.”

Kỷ Khương ngây người. “Được rồi, thiếu hiệp à, sao huynh lại cứu ta? Còn nữa. Sao huynh biết ta là Lâm Xuyên?”

Chàng thiếu hiệp ngồi thẳng người trên cây, ngắt một chiếc lá ngậm trong miệng, chỉ chỉ chiếc nhẫn ngọc phù dung mà nàng đeo trên ngón tay cái.

“Sư phụ ta nói, ai dùng chiếc nhẫn ngọc phù dung này thì là… ừm, thì là chủ nhân của ta.”

Hắn chẳng tình nguyện nói ra bốn chữ sau cùng tí nào.

Hắn khoanh tay chống xuống. “Dù sao thì sư phụ ta cũng nói rồi. Nếu như chủ nhân của chiếc nhẫn ngọc phù dung chết, vậy thì ta cũng phải theo đó mà…” Đang nói, hắn lại chỉ chỉ cổ mình. “Cũng phải một kiếm tạ tội theo. Cho nên mạng của cô cũng chính là mạng của ta.”

Kỷ Khương tựa vào thân cây ngồi xuống. “Vậy sư phụ huynh là ai?”

Thiếu niên lắc lắc đầu: “Có nói cô cũng không biết đâu.”

“Vậy huynh sẽ nghe lời ông ấy chứ? Mạng của ta… chính là mạng của huynh.”

“Ha ha, sao có thể chứ? Lão gàn dở đó chỉ biết viết kiếm phổ, phạt ta quỳ thôi….”

Kỷ Khương nhìn điệu bộ của hắn, bất giác cũng mỉm cười. “Này.”

“Đã nói rồi, tên ta không phải là ‘Này’.”

“Được, được. Vậy huynh tên là gì?”

Thiếu niên dường như lấy lại tinh thần. Hắn đứng thẳng người, cúi đầu nhìn nàng nói: “Tên ta rất có khí thế đấy nhé. Khắp giang hồ không ai không biết, không ai không hiểu.”

Thiếu niên phun mảnh lá cây trong miệng ra. “Cô là người trong cung, chẳng thú vị gì cả. Chắc chắn cô không biết, giang hồ Đại Tề ta náo nhiệt lắm. Nhưng mà sư phụ ta nói, không được tùy ý nói tên ta cho người khác biết đâu.”

Kỷ Khương ngẩng đầu lên. “Vậy ta vẫn gọi là ‘Này’ nhé.”

“Không không. Cô thì không phải. Cô là… của ta…”

Hắn không nói được hai chữ này, dứt khoác lắc lắc đầu.

“Nói cô biết chắc là không sao. Tên ta đấy, gọi là Hữu Hối.”

  1. Lộ dẫn: Giấy thông hành thời cổ.
  2. Tiện tịch: Tầng lớp thấp nhất trong chế độ phong kiến. Không thuộc bốn tầng lớp: Sỉ, nông, công, thương.
  3. Lưu dân: Dân lưu lạc bên ngoài.
  4. Phú khả địch quốc: Giàu có tương đương với của cải của một quốc gia. Chỉ rất giàu có.

Câu chuyện này là điển hình của câu “mỗi người đáng ghét ắt đều có chỗ đáng thương, mỗi người đáng thương đều có chỗ đáng ghét”, nhưng Cố Hữu Hối là một điểm sáng đặc biệt. Mình cực thích những phân đoạn tay đôi của Kỷ Khương và Hữu Hối, cảm thấy chỉ khi gặp chàng thiếu hiệp này thì vị công chúa mới để lộ chút tính trẻ con. À mà lúc đầu dịch chương này còn ngại không biết xưng hô có đúng không. Hehe, vì tác giả tả Hữu Hối giống như thiếu niên mười mấy tuổi ấy.

Tuần rồi mình hào hứng quá nên dịch trước được kha khá. Vì vậy chương tiếp mình không cập nhật vào chủ nhật mà đổi thành 2 chương vào thứ bảy và thứ ba tuần sau nghen.